Ông Vượng trở
mình nặng nhọc, ngước mắt nhìn lên trần của căn phòng bệnh viện.
Lúc còn khỏe mạnh, hàng ngày lái xe đi làm ngang qua bệnh viện Garden
Grove này, ông không bao giờ nghĩ đến rồi có một ngày nào đó mình
sẽ vào nằm ở đây. Ông bất giác thở dài, trong lòng buồn làm tim ông
nhói đau. Hai dòng nước mắt lăn dài từ hai khóe mắt của ông. Một dĩ
vãng đau buồn lại hiện về rõ mồn một trong đầu.
Trước năm 1975,
ông Vượng là một người cán bộ Xây Dựng Nông Thôn của Việt Nam Cộng
Hòa thuộc một quận của tỉnh Quảng Nam. Ông là người làm việc rất
mẫn cán. Những người dân trong vùng ông làm việc đều quý mến tính
tình hòa nhã, lời ăn tiếng nói nhẹ nhàng của ông. Bất cứ người dân nào có việc cần đến
sự giúp đỡ của ông, ông sẵn sàng giúp hết mình, không từ nan từ
việc nhỏ đến việc lớn. Ông làm việc ở Quảng Nam nhưng gia đình vợ
con lại ở Đà Nẵng. Cứ hai tuần một lần, vào cuối tuần, ông thường
lái xe Jeep về Đà Nẵng để thăm vợ con. Ông có một vợ và hai con đều
đang độ tuổi học sinh trung học.
Rồi biến cố 1975
xảy ra, cũng như mọi gia đình quân nhân cán chính khác của Việt Nam
Cộng Hòa, gia đình ông tan nát. Ông phải vào trại tù An Điềm, một
trại tù ma thiêng nước độc thuộc quận Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Vợ
con ông bị lùa đi vùng Kinh Tế Mới ở một vùng thuộc tỉnh ĐăkLăk. Là những người dân thành phố, chưa bao
giờ phải lao động vất vả, nay phải chặt cây, cuốc đất ở vùng nước
độc nên chỉ 3 năm sau cả vợ và hai con ông đều qua đời tại vùng Kinh
Tế Mới. Thế nhưng nhà cầm quyền Cộng Sản vẫn không báo tin cho ông
biết về cái chết của vợ và hai con. Mãi đến năm 1982, khi được thả
ra khỏi trại tù, ông mới biết được vợ con mình đã mất nơi vùng Kinh
Tế Mới. Nỗi khổ đau kéo dài 7 năm chồng thêm nỗi đau thương khi nghe
tin vợ con đã mất làm ông quỵ xuống. Ông đã không còn đủ nước mắt
để mà khóc nữa. Một nỗi thống hận trào dâng trong lòng. Cay đắng
cùng xót xa!
Khi ra khỏi trại
tù, giấy xuất trại của ông ghi địa
chỉ trình diện là vùng Kinh Tế Mới. Nhưng khi về Đà Nẵng và được
tin vợ con đã mất tại vùng Kinh Tế Mới, ông bỏ trốn vào Tam Hiệp,
Biên Hòa ở với người chị ruột. Tại đây,
ông chạy giấy tờ và khai rằng trước năm 1975 là một giáo viên.
Nhà cầm quyền Cộng Sản tại địa phương này cũng tương đối dễ
dãi - vì chị ông đã cho chúng tiền
– nên ông cũng tạn yên thản. Đến năm 1983, nhân có một chuyến vượt biên
tổ chức tại đây, do công an địa phương tổ chức, chị ông đã cho ông một
cây rưỡi vàng để vượt biên. Nhớ lại những ngày vào năm 1975, những
người công an này mới vào, ngơ ngơ ngáo ngáo, choáng ngợp trước sự
giàu sang phồn thịnh của miền Nam. Bây giờ thì họ cũng nhà cao cửa
rộng, ghế chéo bảnh chọe, trong khi những chủ nhân thật sự thì phải
lên núi hoặc phải vượt biên vì không chịu nổi sự hà khắc của một
lũ...vượn người. Sau mười ngày lênh đênh trên sóng nước, thuyền của
ông đi cũng cập bến Mã Lai. Ở trong trại tạm cư trên đất Mã Lai, hàng
ngày ông được ăn uống đầy đủ và được học Anh Văn. Sáu tháng sau, một
phái đoàn Hoa Kỳ đến trại để phỏng vấn.
Vì là người bị ở tù Cộng
Sản nên ông được ưu tiên đi Mỹ trong đợt này.
Sang đến Hoa Kỳ,
ông được người bảo trợ là gia đình một mục sư Tin Lành người Mỹ đưa
về sống tại tiểu bang California, một tiểu bang có khí hậu giống như
khí hậu Việt Nam, được người Việt kháo nhau là “tiểu bang nắng ấm
tình nồng”. Ông đi học ESL khoảng chừng 9 tháng thì hết được trợ cấp
và bắt đầu đi làm assembler. Sau đó ông theo học nghề xây dựng, cùng
vài người bạn hùn hạp nhau mở một công ty nho nhỏ lo việc xây dựng,
sửa chữa nhà cửa. Do làm ăn đàng hoàng, có uy tín, làm lấy tiền
phải chăng nên công ty của ông làm ăn ngày càng khấm khá hơn. Ông cũng
có được một căn nhà nho nhỏ 3 phòng ngủ, 2 phòng tắm với đầy đủ
tiện nghi.
Cuộc sống của
ông bây giờ tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, vào những đêm tối mùa đông,
nằm một mình trong căn nhà rộng, nỗi trống vắng ùa đến làm ông buồn
không thể nào ngủ được. Ông nghĩ đến người vợ hiền và hai đứa con
yêu phải chết nơi vùng Kinh Tế Mới của Cộng Sản làm ông nhớ thương da
diết. Phải chi bây giờ ở đây có vợ và các con cùng sống chung với
nhau thì còn hạnh phúc nào bằng.
Một người bạn
của ông về Việt Nam thăm gia đình, tình cờ gặp lại người bạn trước
đây học chung lớp với ông. Ông này trước năm 1975 chỉ lo việc kinh doanh
buôn bán nên không bị ở tù Cộng Sản, nhưng lại bị Cộng Sản đánh tư
sản vào năm 1979 nên cũng trắng tay. Bây giờ thì ông ta cùng vợ con
đang sống tại Huế. Ông ta tên Chiêu.
Liên lạc được
với ông Chiêu, ông Vượng cảm thấy rất là vui. Vừa là bạn học cũ, nay
ông lại có người để mà thỉnh thoảng gọi phone nói chuyện tào lao,
cùng ôn lại chuyện học hành ngày xưa, chuyện bạn bè kể cả chuyện
trai gái, bồ bịch hồi còn bé dại. Biết được vợ con ông Vượng đã
mất tại vùng Kinh Tế Mới, bây giờ ông đang sống một mình tại Hoa Kỳ,
ông Chiêu cảm thấy ái ngại và thương bạn mình nhiều hơn. Một hôm, ông Chiêu nói với ông Vượng:
_ Này ông Vượng,
tôi hiện có một đứa cháu gái kêu bằng chú họ, tuổi đã ngoài ba mươi
và chưa lập gia đình, tên là Vân, hiện đang sống cùng gia đình cha mẹ
tại Huế. Nếu ông muốn, tôi sẽ làm mai để cháu Vân về làm bạn với
ông.
_ Nhưng tôi cũng già rồi, đã ngoài sáu mươi...
_ Điều này đâu
có thành vấn đề, tôi nói vào thì mọi chuyện sẽ êm xuôi.
_ Nhưng..
_ Không nhưng nhị
gì cả, mọi vịệc để tui lo chu toàn cho.
Qua sự mai mối
của ông Chiêu, gia đình cô Vân chấp thuận để Vân lập gia đình cùng với
ông Vượng. Một tấm hình của Vân được gởi từ Việt Nam sang để ông
Vượng biết được mặt của người vợ tương lai. Trong hình là một phụ
nữ gương mặt hiền hậu, đẹp với mái tóc thề xõa ngang vai. Nhìn hình
của Vân, lòng ông Vượng rộn lên một niềm vui khó tả. Tim ông dường như
trẻ lại. Những háo hức, ham muốn của thời tuổi trẻ vụt sống dậy
trong ông. Ông mong muốn được về Việt Nam cưới Vân làm vợ và đưa nàng
sang Mỹ càng sớm càng tốt.
Hai tháng sau, ông
về Việt Nam. Đầu tiên là ông về Tam
Hiệp để thăm lại người chị ruột mà đã hơn mười mấy năm ông chưa gặp
lại. Chị ông bây giờ vẫn còn mập nhưng trông đã già hơn xưa nhiều. Ôm
chặt chị trong vòng tay mà lòng ông
cảm thấy rưng rưng, thấy thương chị của mình vô cùng. Cũng nhờ có bà mà ông mới có được
ngày hôm nay. Các cháu của ông nay đã lập gia đình và đã ra ở riêng. Ông trình bày với bà ý định trở về
Việt Nam để lấy vợ. Bà không biểu đồng tình mà cũng không phản đối.
Sau đó, theo hẹn,
ông ra Huế để gặp ông Chiêu và gia đình Vân. Sau mấy hôm chuẩn bị, một
đám cưới tưng bừng được tổ chứa tại một nhà hàng lớn ở Huế. Sau tuần trăng mật, ông tức tốc trở về
Hoa Kỳ lo giấy tờ để bảo lãnh Vân. Nhờ một cơ sở dịch vụ chuyên lo
về vấn đề di trú, đoàn tụ tại Orange County, một năm sau Vân đã sang
được Hoa Kỳ. Khỏi nói thì ai cũng biết, trong lòng ông Vượng cảm
thấy vui nhiều khôn xiết kể. Có được người vợ trẻ, ông Vượng cảm thấy vui nhưng cũng có
nhiều bất an. Nhìn Vân còn trẻ trong khi ông đã ngoài sáu mươi, ông
cảm thấy hai vợ chồng như đôi đũa lệch. Hàng ngày, trong lúc ông đi
làm thì Vân ở nhà dọn dẹp nhà cửa, rảnh rỗi thì xem phim bộ Hồng
Kông. Sợ Vân buồn, ông thường hay ghé vào tiệm cho mướn video để mướn
phim bộ Hồng Kông về cho nàng xem giải khuây. Cuối tuần, ông chở nàng
đi chợ ở ngoài phố Bolsa. Một hôm, Vân nói với ông:
_ Em muốn xin anh
cho em học lái xe.
Ông ngần ngừ:
_ Nhưng em có cần
đi đâu đâu...
Nàng tiếp:
_ Ở đây, ai qua
Mỹ cũng có bằng lái xe, em qua hơn nửa năm rồi mà chưa được cẩm vô
lăng...
_ Thôi được, để
anh bảo thằng Long dạy em học lái xe.
Long là cháu kêu
ông bằng chú họ. Hắn sang Mỹ trước ông khoảng sáu năm, trong đợt nhà cầm quyền Cộng
Sản Việt Nam đuổi người Việt gốc Hoa ra khỏi Việt Nam (mà người ta
thường hay gọi là nạn kiều). Đây là những đợt vượt biên mà người ta
thường gọi dưới mỹ từ “bán chính thức”. Long sang Trung Cộng theo ngả
Móng Cái ngoài Bắc, sau đó nhờ lanh lẹ nên đã trốn sang Hồng Kông và
xin vào trại tỵ nạn. Sau đó Long sang được Hoa Kỳ, đi học college hai
năm, lấy bằng AA degree và đi làm. Tin tưởng Long là cháu của mình,
ông Vượng nhờ Long dạy cho Vân học để
thi bằng viết, sau đó cuối tuần dạy nàng học lái xe.
Từ khi học lái
xe, Vân rất là vui. Buổi tối, nàng thường kể lại cho ông Vượng những
tiến bộ của nàng trong việc học lài xe và tỏ ra thích thú. Học lái
xe khoảng một tháng thì Vân đã thi đậu bằng lái.
Một hôm, đi làm
về, ông Vượng thấy nhà cửa vắng vẻ hơn thường lệ. Ông gọi Vân nhưng
không có tiếng trả lời. Bước đến bàn, một bức thư đặt ngay giữa
bàn. Ông mở bức thơ ra và đọc:
Thưa chú,
Khi chú đọc bức
thơ này thì con và Vân đã đi xa, đã sang tiểu bang khác để cùng nhau
sinh sống. Chúng con đã yêu thương nhau và quyết định cùng nhau lập gia
đình.
Kính chào chú,
Cháu Long.
Mắt ông Vượng hoa
lên. Ông loạng choạng ngả bổ người ra phía sau, trước khi ngất xỉu
vẫn còn kịp bấm 911...
Ông nằm tại bênh
viện Garden Grove này đã hơn hai tuần. Chứng bệnh tim mạch tái phát và hành
ông dữ dội. Những cơn đau cơ hồ muốn phá vỡ lồng ngực của ông. Hôm
nay ông cảm thấy mình đã yếu đi rất nhiều, không còn hơi sức nữa.
Tối hôm ấy, ông
Vượng qua đời. Cô y tá trực đêm người Việt nghe ông thỉnh thoảng nói
nhảm trong cơn mê trước khi mất:
_ Vân....em...!!!Ôi...Long…!!!
Phi Vũ
No comments:
Post a Comment