Tại buổi hội thảo về tệ nạn buôn người ở Nam Và Đông Nam Châu Á được tổ chức tuần trước đại học George Washington miền Đông Bắc Hoa Kỳ, một lần nữa tệ nạn buôn bán trẻ vào đường mãi dâm từ Việt Nam sang Kampuchia lôi kéo sự chú ý của người tham dự. Thanh Trúc có bài chi tiết:
Photo: RFA
Hai nhân chứng của tệ nạn buôn người cô Sina Vann người gốc Việt Nam và bà Veero người Pakistan
Hiện diện của nhân chứng sống
Buổi hội thảo, do Trung Tâm Sigur Nghiên Cứu Về Châu Á thuộc đại học George Washington tổ chức tuần trước, cho thấy nạn buôn người ở Nam và Đông Nam Á vẫn là vấn đề nhức nhối khi mà quá nhiều phụ nữ và trẻ con bị lạm dụng vào đường lao động cực nhọc do nợ nần chồng chất như tại Pakistan, hoặc bị buôn vào đường mãi dâm thiếu nhi từ Việt Nam sang Campuchia.
Mở đầu buổi hội thảo, Giáo sư Shawn McHale, giới thiệu hai nhân chứng điển hình của tệ nạn nô lệ và buôn người , bà Veero người Pakistan, cô Sina Vann, thiếu nữ gốc Việt bị gạt bán qua Kampuchia hành nghề mãi dâm, sau được hai tổ chức ngoài chính phủ cứu thoát.
Mở đầu buổi hội thảo, Giáo sư Shawn McHale, giới thiệu hai nhân chứng điển hình của tệ nạn nô lệ và buôn người , bà Veero người Pakistan, cô Sina Vann, thiếu nữ gốc Việt bị gạt bán qua Kampuchia hành nghề mãi dâm, sau được hai tổ chức ngoài chính phủ cứu thoát.
Vào ngày 13 vừa qua, cả hai đến Hoa Kỳ nhận giải thưởng Frederick Douglas vì những cố gắng trong việc tự phục hồi bản thân cũng như nổ lực tuyên truyền và giúp đỡ những phụ nữ và trẻ em chẳng may bị đưa đẩy buôn bán vào đường lao động và nô lệ tình dục như họ trước kia.
Tại buổi hội thảo, hai người được gọi là sống sót từ tệ nạn buôn người đã trình bày trường hợp của mình cũng như trả lời thắc mắc từ những người tham dự.
Lên tiếng trước cử tọa đa số là sinh viên thuộc Trung Tâm Sigur Nghiên Cứu Về Châu Á của đại học George Washington , Sina Vann cho biết cô bị một người hàng xóm ở Việt Nam gạt bán qua Kampuchia năm 13 tuổi.Trong suốt hai năm cô đã phải phục vụ đủ loại khách du lịch nước ngoài đến Xứ Chùa Tháp để chung đụng với trẻ vị thành niên.
Sau khi được Somaly Mam, một tổ chức ngoài chính phủ ở Kampuchia cứu thoát và giúp phục hồi nhân phẩm để hoà nhập trở lại với xã hội, Sina Vann trở thành cộng sự viên đắc lực trong công tác phòng chống và cứu vớt những nạn nhân của tệ nạn mãi dâm thiếu nhi tại Campuchia.
Sina Vann cho biết cô bị một người hàng xóm ở Việt Nam gạt bán qua Kampuchia năm 13 tuổi.Trong suốt hai năm cô đã phải phục vụ đủ loại khách du lịch nước ngoài đến Xứ Chùa Tháp để chung đụng với trẻ vị thành niên.
Phương cách phòng chống, xử lý và bảo vệ
Với cô, hôm 13 vừa qua, ngày được tổ chức Free The Slaves tức Giải Thoát Nô lệ ở Mỹ trao tặng giải Frederick Douglass , là lúc cô cảm thấy tiếng nói của nạn nhân nạn buôn người được lắng nghe:
“Xin hãy cứu những nạn nhân bị buôn người bất cứ lúc nào quí vị có thể giúp. Nếu quí vị không giúp thì chúng tôi, những nạn nhân, sẽ chết dưới tay những tội phạm buôn người.
Tôi nói như vậy bởi tôi đã chết từ lúc đặt chân lên Kampuchia. Sina Vann đứng trước quí vị bây giờ là Sina Vann lớn lên trong bạo hành, hận thù và đau đớn. Sina Vann còn tranh đấu được vì Sina Vann được tiếp thêm sức mạnh để đến với những kẻ bị hành hạ đau khổ như mình trước kia.”
Tiếp lời Sina Vann, bà Laura Lederer, phó chủ tịch của Global Centurion, trước từng là giám đốc kế hoạch toàn cầu phòng chống tệ nạn buôn người thuộc Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, phát biểu:
Nạn buôn người được nói đến từ lâu, và từ trường hợp của Sina Vann người ta có thể hỏi những kẻ có nhu cầu mua bán con người, những kẻ có khuynh hướng thích chung đụng thích lạm dụng thiếu nhi là những ai để từ đó, bà nói tiếp, trừng trị họ bằng luật pháp:
Xin hãy cứu những nạn nhân bị buôn người bất cứ lúc nào quí vị có thể giúp. Nếu quí vị không giúp thì chúng tôi, những nạn nhân, sẽ chết dưới tay những tội phạm buôn người. Tôi nói như vậy bởi tôi đã chết từ lúc đặt chân lên Kampuchia. Sina Vann đứng trước quí vị bây giờ là Sina Vann lớn lên trong bạo hành, hận thù và đau đớn. Cô Sina Vann
Trước đó Hoa Kỳ có ba phương cách là phòng chống, xử lý, bảo vệ, sau được ngoại trưởng Hillary Clinton thêm vào phương cách thứ tư là liên kết giúp đỡ.
Cô Sina Vann trả lời phóng viên Thanh Trúc đài RFA Cô Sina Vann trả lời phóng viên Thanh Trúc đài RFA Nói tới phòng chống thì không chỉ đơn thuần là giáo dục hay tuyên truyền mà còn phải khuyến cáo rằng luật pháp có cách để chận đứng tệ nạn trước khi nó có thể xảy ra . Rất cần thiết phải cũng cố gia đình, phát triển kiến thức , tạo cơ hội công ăn việc làm cho các thành phần ít học trong xã hội. Nhìn xa hơn là hổ trợ sự tăng trưởng kinh tế xã hội cho các quốc gia nghèo . Khoảng cách giàu nghèo quá lớn là yếu tố dẫn tới tệ buôn người. Nói là vậy nhưng phòng chống quả là một quá trình vận động lâu dài và liên tục.
Phòng chống phải được coi là vấn đề ưu tiên bởi một khi đã bị bán và bị lạm dụng thì coi như con người đó bị huỷ hoại từ tinh thần đến thể xác đến cảm xúc lẫn cuộc sống cả đời họ mà muốn phục hồi nhân phẩm và kéo họ trở về với đời thường không phải chuyện đơn giản một ngày một buổi.
Phỏng chống và xử lý và trừng phạt kẻ buôn người là thế nào? Cũng vậy, tiên quyết của chính sách là luật lệ nghiêm minh. Người ta có thể đề ra bao nhiêu là luật bao nhiêu là chính sách nhưng nếu không áp dụng và không thức thi một cách nghiêm túc thì những kẻ buôn người, những kẻ mua bán trẻ thơ, những kẻ lạm dụng thiếu nhi vẫn nhơn nhơ ngoài vòng pháp lưật .
Phòng chống phải được coi là vấn đề ưu tiên bởi một khi đã bị bán và bị lạm dụng thì coi như con người đó bị huỷ hoại từ tinh thần đến thể xác đến cảm xúc lẫn cuộc sống cả đời họ mà muốn phục hồi nhân phẩm và kéo họ trở về với đời thường không phải chuyện đơn giản một ngày một buổi.
Thế thì phòng chống và xử phạt đâu có ý nghĩa gì? Nói đến luật lệ nghiêm túc là nói đến tinh thần thượng tôn pháp luật để chống tệ nạn buôn người đã và đang diễn ra dưới nhiều hình thức nhiều khía cạnh , trong đó đáng chú ý đáng phòng nhất chính là du lịch đến các nước nghèo để tìm cách chung đụng với thiếu nhi ở những nước ấy. Đường giây Việt Nam Campuchia
Giám đốc Trung Tâm Sigur Nghiên Cứu Châu Á , giáo sư Shawn McHale, đề cập đến khái niệm cung và cầu trong lãnh vực buôn người:
Dưới mắt ông, tệ nạn buôn người xuyên biên giới đang trở thành hiện tượng phổ biến không riêng vùng Nam và Đông Nam Châu Á mà ở nhiều nơi khác trên thế giới châu khác trên thế giới:
Đề cập đến tình trạng buôn phụ nữ trẻ em tại hai nước Đông Nam Á là Việt Nam và Kampuchia, giáo sư McHale nói rằng dựa vào kinh nghiệm nghiên cứ đã qua thì ông có thể khẳng định :
Vùng biên giữa Kampuchia và Việt Nam gần như là một khu vực mở mà người của hai quốc gia có thể qua lại hàng ngày. Cũng dể hiểu vì sao một cô bé 13 tuổi từ Việt Nam được đưa sang bên kia biên giới để vào đất Kampuchia một cách dể dàng. Vấn đề ở đây là thực sự có bao nhiêu người mỗi ngày băng sang biên giới để buôn bán làm ăn, bao nhiêu phụ nữ và trẻ con được đưa sang biên giới để rồi bị buôn bán vào đường mãi dâm ở bên đó. Buôn người là một vấn đề hiện hữu tại biên giới Việt Nam Kampuchia.
Về sự kiện là có rất nhiều trẻ gái Việt Nam bị bán vào đường mãi dâm, còn gọi là những quán gái, ngay trên đất Kampuchia , hoặc từ Việt Nam sang Kampuchia, cô Sina Vann nói với đài Á Châu Tự Do:
Rất là nhiều người Việt Nam mình lên trên đây , tôi xin thẳng tay nói với cha mẹ Việt Nam là xin đừng đưa con ra nước ngoài, đừng đưa con lên xứ người ta . Con mình lên đây làm cái nghề này không có gì vui cũng không có gì tốt. Rất là khổ. Đi “dù” với người ta người ta đánh người ta đập người ta làm tội dữ lắm, Cô Sina Vann
Rất là nhiều người Việt Nam mình lên trên đây , tôi xin thẳng tay nói với cha mẹ Việt Nam là xin đừng đưa con ra nước ngoài, đừng đưa con lên xứ người ta . Con mình lên đây làm cái nghề này không có gì vui cũng không có gì tốt. Rất là khổ. Đi “dù” với người ta người ta đánh người ta đập người ta làm tội dữ lắm, không phải được tiền người ta dễ đâu. Con trai con gái ba bốn tuổi phải kiếm tiền mà đi “dù” với khách toàn là đi miệng không. Cha mẹ không tính con, sanh con ra rồi bán con để nuôi mình ên, sanh con ra để lợi dụng con luôn.
Cái hậu quả kinh khủng mà cô Sina Vann được hỏi đến khá nhiều là căn bệnh AIDS lây truyền qua đường quan hệ không an toàn mà những nạn nhân của nô lệ tình dục mắc phải. Cô nói cô không rõ con số chính xác về những nạn nhỏ tuổi bị AIDS, nhưng nếu đề cập đến những em nhỏ Việt Nam trong các quán gái khi chẳng may vướng phải HIV thì sẽ bị chủ chứa đuổi đi.
Em xin bên công an Việt Nam, xin làm sao đừng cho phụ nữ Việt Nam lên Kampuchia nhiều lắm. Tại vì Việt Nam mình lên trên đây làm gái xứ người ta quá trời nhiều, lây AIDS lây SIDA nhiều lắm. Chết vì AIDS bỏ xác bên này không biết con ai ra con ai.
Cô Sina Vann
Con đường duy nhất để kiếm sống, cô trình bày tiếp, là tìm đến những quán gái những quán mát xa khác , còn không thì tìm đường trở về Việt Nam.
Em xin bên công an Việt Nam, xin làm sao đừng cho phụ nữ Việt Nam lên Kampuchia nhiều lắm. Tại vì Việt Nam mình lên trên đây làm gái xứ người ta quá trời nhiều, lây AIDS lây SIDA nhiều lắm. Chết vì AIDS bỏ xác bên này không biết con ai ra con ai.
Bổ túc vào chi tiết cô Sina Vann vừa nói, ông Shawn McHale cho biết:
Số người bị AIDS tại Việt Nam không chỉ ở các thành phố lớn mà còn có rất nhiều ở vùng An Giang. Phải nói An Giang là điểm đến và đi của những người hàng ngày qua lại biên giới Việt Nam Kampuchia. Có thể nói không sai con số phần trăm những người hành nghề mãi dâm mắc bệnh AIDS ở khu vực biên giới này là 25% , nghĩa là cao một cách đáng sợ, cao hơn bất cứ nơi nào khác trong đất nước Việt Nam.
Vẫn theo lời ông, nói về bệnh AIDS lây lan qua đường mãi dâm thì không chỉ đô thị mà thôn quê cũng có nhiều , đặc biệt những vùng ven biên nơi người ta có thể đi qua nước khác dễ dàng như trường hợp vùng An Giang nằm giữa biên giới Việt Nam và Kampuchia.
DCVOnline: Thời gian gần đây, từ lóng “người rơm” được sử dụng để chỉ những người Việt Nam “không giấy tờ” thường đang sống vật vờ quanh cảng Calais và một số nơi khác trong nước Pháp để tìm cơ hội xâm nhập trái phép vào Anh. Người rơm cùng những sắc dân di cư bất hợp pháp ở khu vực này đang là vấn nạn của nhà nước Pháp. Đã có nhiều chiến dịch truy quét của cảnh sát nhưng chỉ là màn “bắt cóc bỏ dĩa”, không thấm vào đâu.
Ngày 26/10 vừa qua, tờ báo địa phương La Voix Du Nord đưa tin tòa án tirnh Dunkerque đã phán quyết án tù cho nhiều người Việt Nam bị cáo buộc tham gia vào đường dây vận chuyển người rơm này.
Dưới đây là bài của phóng viên Estelle Joliver.
Quang Hung Le, 40 tuổi, đến Pháp năm 1991. Là công nhân không công việc ổn định, Hưng cư trú tại Vaux-en-Velin, ngoại ô thành phố Lyon (Pháp), đã có quốc tịch Pháp.
Lều tạm trú của “người rơm”, di dân Việt Nam bất hợp pháp, tại vùng rừng Grande Synthe (Pháp) Nguồn: BBC Vietnamese
Khoảng 23 giờ ngày 10/08/2005, Hung bị bắt giữ cùng với 9 người khác tại trạm nghỉ dọc xa lộ ở Moeres thuộc Ghyvelde. Hung vừa đưa 4 người rơm đến trên chiếc xe mang biển số của Đức.
“Tôi không biết là họ không có giấy tờ”, anh ta lập luận như thế trước vành móng ngựa tại phiên tòa ở Dunkerque hôm thứ Năm vừa rồi. Bà chủ tọa phiên tòa Averty đã thận trọng quan sát Hung: “anh không biết hay anh không muốn biết?”.
Hai địa điểm đổ quân ở Lille và Paris.
Hung khai ra Phillipe, một người bạn Việt Nam đã gặp anh ta trong một quán cafe ở Paris. Phillippe cho Hung mượn xe tại nơi ở của Phillippe là Lille, với mục đích làm phương tiện vận chuyển người rơm qua lại chủ yếu giữa Flandres và khu vực theo bờ biển Dunkerque. Thù lao cho dịch vụ này: 200 euros.
“Tôi đang thất nghiệp, nhà máy đang đóng cửa theo định kỳ 3 tuần mỗi năm, vợ tôi vừa bỏ tôi, tôi không có việc làm nào khác (nên) tôi chấp nhận”, Hung giải thích. Từ Hung và chiếc điện thoại di động của Phillippe mà Hung đang sử dụng, các điều tra viên đã lần ra các chặng của một đường dây vận chuyển người vượt biên bất hợp pháp.
Hai địa chỉ, một ở phố Meurein – Lille, và một ở phố Balard – Paris bị phát hiện là “điểm đổ quân” của người rơm. Hàng chục người đã bị bắt giữ hồi tháng 11/2005. Nhưng với 5 người bị dẫn tòa vào hôm thứ Năm vừa qua thì chỉ có Quang Hung Le, một mắc xích nhỏ của đường dây, là được sáng tỏ.
200 euros mỗi người.
Đó là Anh Doan và Quang Duy Pham - 24 tuổi, Ngoc Viet Dang - 26 tuổi. Tất cả đều ở tại Pháp. Họ chịu trách nhiệm nhập “kho” các người rơm ngay sau khi người rơm đến gare tàu ở Lille và vận chuyển “hàng” đến trạm nghỉ cho xe tải Moeres như đã nói ở trên. Họ khai rằng đã nhận những chỉ thị của một người là ông Gia, biệt danh là “ông già”, sống ở Anh. Ông Gia là người kiểm soát cả đường dây từ Nga qua Đức, đến Pháp.
Ông Gia cũng là người nhận tiền của gia đình người rơm chi trả từ Việt Nam, và sau đấy bật đèn xanh để họ tiếp tục chuyển hàng. Cả ba thừa nhận đã chăn dắt hàng chục người rơm mỗi hai, ba tháng với giá 200 euros mỗi người rơm.
Đó cũng là cô Nguyen, 29 tuổi, để có tiền học, thỉnh thoảng đã đến gare du Nord ở Paris mua vé tàu hỏa cho các người rơm đến từ Đức. Thỉnh thoảng, cô cũng nhận tiền thù lao để chứa chấp người rơm tại nơi cư ngụ.
“Tất cả họ đều có việc làm ở Pháp và không muốn tìm đường vượt sang Anh. Họ chính là những kẻ dẫn đường”, công tố viên cáo buộc.
Luật sư của Hung nhấn mạnh về tính tách biệt trong hồ sơ của Hung với các bị can khác. “Chưa hề có một từ xấu nghĩa nào để nói về những người sống bất hợp pháp. Phillippe đã không chút nghi ngại khi nói với Hung về vấn đề tương trợ những người Việt. Cuối cùng, anh ta đã trả giá đắt để kiếm 200 euros, mà anh ta cũng chẳng có được số tiền đó”.
Quang Hung bị kết án 4 tháng tù giam tính từ ngày bị giam cứu. Anh Doan, Quang Duy Pham, Ngoc Viet Dang bị phát lệnh bắt giam, cả ba bị kết án 3 năm tù giam và cấm vào lãnh thổ Pháp, Phuong Diep Nguyen bị kết án 1 năm tù giam và cấm vào lãnh thổ Pháp 3 năm
Thanh Quang, phóng viên RFA 2009-10-26 Hôm 10-19 vừa rồi, Bộ Ngọai giao Hoa Kỳ tổ chức buổi lễ qua đó ông Michael H. Posner nhậm chức tân Phụ tá Ngọai trưởng Mỹ đặc trách Dân chủ, Nhân quyền và Lao động. Nhân vật này đã từng hoạt động cho dân chủ, nhân quyền ra sao ? Chức vụ mới của ông có thể giúp ích gì cho nỗ lực cải thiện tình hình nhân quyền Việt Nam? Qua cuộc trao đổi với Thanh Quang, một trong những khách mời dự lễ tuyên thệ vừa nói là BS Nguyễn Quốc Quân, Chủ tịch Hội đồng Điều hợp của Tổ chức Quốc tế Yểm trợ Cao trào Nhân bản, có nhận xét như sau: Thanh Quang: Kính chào Bác sĩ Nguyễn Quốc Quân. Trước hết BS có nhận xét như thế nào ở ông Michael Posner trong lãnh vực dân chủ, nhân quyền? BS Nguyễn Quốc Quân: Đây có lẽ là lần đầu tiên, nhân vật có một quá trình tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền là ông Posner, được đề cử vào chức vụ Phụ tá Tổng trưởng Ngoại giao đặc trách về vấn đề Dân chủ, Nhân quyền và Lao động. Ông có 30 năm hoạt động trong lãnh vực nhân quyền và ông đã từng làm Giám đốc điều hành cũng như Chủ tịch của tổ chức Human Rights First (có trụ sở tại Nữu Ước). Và dưới tài lãnh đạo của ông, ông cũng đã đưa được tổ chức cùng với sự kính nể của các tổ chức nhân quyền quốc tế. Và tổ chức Human Rights First được coi là một trong những tổ chức lãnh đạo công cuộc vận động tranh đấu cho các quyền.
Tân thứ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ Michael Posner và BS Nguyễn Quốc Quân. Photo by TS Trần Văn Hải/TCQTYTCTNB Thí dụ trong lãnh vực nhân quyền như bảo đảm cho quyền công dân tranh đấu cho các vấn đề về an ninh quốc gia, vì nhiều khi người ta nhân danh an ninh quốc gia, người ta làm những việc có thể vi phạm đến quyền của người công dân. Thứ hai nữa là ông tranh đấu chống sự kỳ thị và tranh đấu cho quyền của người tị nạn. Đó là những lãnh vực mà ông đã tranh đấu rất mạnh cho vấn đề nhân quyền. Trong dịp tiếp xúc với chúng tôi, ông Michael Posner khẳng định sẽ thi hành chính sách nhân quyền liên tục và nhất quán. Ông nói rằng cần có sự bền bỉ, không có sự thay đổi cho vấn đề nhân quyền. BS Nguyễn Quốc Quân Và trong dịp chúng tôi tiếp xúc với ông thì ông khẳng định là ông sẽ thi hành chính sách nhân quyền liên tục và nhất quán. Ông nói rằng cần có sự bền bỉ, không có sự thay đổi, mang lại quyền lợi gọi là “Smart power” của nước Mỹ, tức là quyền “Sức mạnh khôn ngoan của nước Mỹ” sử dụng cho vấn đề nhân quyền. Đối thoại nhân quyền Mỹ-Việt Thanh Quang: Thưa BS, liên quan tình hình nhân quyền tại VN, liệu tân Phụ tá Ngọai trưởng Hoa Kỳ đặc trách về Dân chủ, Nhân quyền và Lao động này có thể giúp ích như thế nào cho nỗ lực cải thiện tình hình nhân quyền đang ngày càng sa sút ở VN? BS Nguyễn Quốc Quân: Sau lễ tuyên thệ thì có buổi tiếp tân. Tôi và tiến sĩ Hải đã có dịp nói chuyện với ông và bà Ngoại trưởng Clinton về vấn đề sắp tới đây. Ba tuần lễ tới đây, sẽ có một cuộc đối thoại về nhân quyền giữa Việt Nam và Mỹ. Chúng tôi đã nêu lên vấn đề về tình trạng nhân quyền ngày càng sa sút và cần phải có một sự can thiệp. Phái đoàn của Mỹ cần phải nêu lên những vấn đề vi phạm trầm trọng về nhân quyền đang tiếp diễn ở Việt Nam. Ông cũng đồng ý như vậy và ông hứa rằng sẽ tham khảo các tổ chức nhân quyền cũng như đại diện của cộng đồng Việt Nam trong những ngày sắp tới trước khi ông đi VN. Ông đã giữ lời hứa và ngày hôm qua chúng tôi đã nhận được thư mời đến ngày thứ năm tới, từ 2g30 đến 3g30, sẽ đến gặp ông ở Bộ ngoại giao để nghe ông thuyết trình về những gì ông sẽ làm trong vấn đề đàm phán về nhân quyền với Việt cộng. Và ông cũng hỏi ý kiến của một số các nhà tranh đấu nhân quyền để ông có thêm ý kiến và dữ kiện. Ông nói rằng ông xuất thân từ một gia đình người Do Thái là nạn nhân của chế độ độc tài Đức quốc xã. Ông biết thế nào là nỗi khổ nhục, sự đau khổ của một người bị mất các quyền tự do căn bản. Tôi nghĩ có nhiều yếu tố thuận lợi để làm việc với ông Michael Posner, nhằm cải thiện tình trạng nhân quyền ở Việt Nam. BS Nguyễn Quốc Quân Thanh Quang: Theo như kế họach thì vào tháng 11 tới đây, ông Michael Posner sẽ dẫn đầu phái đòan đi VN để đối thọai với Hà Nội về vấn đề nhân quyền, thì một cách tóm tắt, BS hy vọng gì ở diễn tiến đó? BS Nguyễn Quốc Quân: Chúng tôi cũng hy vọng trong ngày thứ năm sắp tới, tôi và có lẽ một số các nhân vật tranh đấu nhân quyền khác sẽ ngồi lại với ông. Chúng tôi sẽ trình bày với ông những vi phạm trầm trọng về nhân quyền tại nhiều lãnh vực như tôn giáo, tự do thông tin. Nhất là quyền tự do thông tin trên internet mà hiện giờ những người tranh đấu cho VN, cho tự do thông tin mà mỗi khi sử dụng internet để phát biểu ý kiến một cách ôn hoà, đã bị nhà cầm quyền Cộng sản bắt giữ và đưa ra xử phạt hết sức nặng. Chúng tôi cũng nêu lên vấn đề về lãnh vực tự do tôn giáo mà điển hình là trường hợp đàn áp tăng ni của tu viện Bát Nhã ở Lâm Đồng mới đây. Chúng tôi sẽ nêu lên những vấn đề đó và đặt câu hỏi với ông tân Phụ tá Tổng trưởng là liệu có nên đưa VN vào trong vấn đề CPC không. Tất cả những điều đó chúng tôi kỳ vọng vì tôi nghĩ ông này đã có một quá trình tranh đấu 30 năm trong lãnh vực nhân quyền. Thứ hai nữa, cũng là một điều lợi, là ông nói rằng ông xuất thân từ một gia đình người Do Thái và gia đình ông đã là nạn nhân của chế độ độc tài Đức quốc xã. Ông biết thế nào là nỗi khổ nhục, sự đau khổ của một người bị mất các quyền tự do căn bản. Tôi nghĩ có nhiều yếu tố thuận lợi để làm việc với ông Michael Posner, cải thiện được tìnhtrạng ở VN.Thanh Quang: Cám ơn BS Nguyễn Quốc Quân.
Hình trên: Nông dân làm chủ thửa ruộng, làm chủ đời mình bây giờ trở thành kẻ làm công quét dọn cho kẻ giầu có và quí tộc đỏ giải trí có thể ngay trên thửa ruộng hay nền nhà của họ. (Hình: NYT)
Hình dưới: Cho đến năm ngoái, theo một số chuyên viên ước lượng, cứ trung bình một tuần lễ lại có một sân gôn được cấp giấy phép ở Việt Nam. Trong hình này là sân gôn Ocean Dunes Golf Club ở Phan Thiết. (Hình: NYT)
PHAN THIẾT (NV) - Phan Thiết thành phố của tỉnh Bình Thuận, một tỉnh nghèo, hiểu theo nghĩa đa số người dân đều cùng khổ, nhưng lại có số sân gôn (golf course) nhiều thứ nhì tại Việt Nam, chỉ sau Hà Nội.
Hiện nay, trên cả nước có khoảng 150 dự án sân gôn, phục vụ giải trí cho giới tư bản đỏ ở trong nước và du khách ngoại quốc. Dự án sân gôn thành hình đến đâu, dân nghèo bị mất cơ hội sống đến đó. Rất nhiều cuộc biểu tình đã xảy ra chống lại các vụ giải tỏa đền bù tượng trưng để làm sân gôn nhưng rồi chẳng đi tới đâu.
Lập sân gôn ở một xứ sở cộng sản như ở Việt Nam, mà hầu hết người dân đều kiếm ăn rất chật vật, chúng chỉ để phục vụ kẻ giầu có và quyền thế, nếu không phải du khách ở ngoại quốc thỉnh thoảng đến giải khuây.
Ngay trên con đường Bắc Nam dọc Trường Sơn gọi là đường Hồ Chí Minh, cũng có 8 sân gôn được thiết lập.
Nói chung, nếu tất cả các dự án được thực hiện, số lượng sẽ có ngày gần tương ứng với số sân gôn gần 200 ở Hàn Quốc, một dân tộc rất mê chơi gôn. Dù vậy, vẫn ít hơn Trung Quốc với hơn 300 sân (nhưng phải hiểu dân số nước này 1.3 tỉ người và đầy ngập du khách quanh năm). Còn so với Hoa Kỳ lại càng xa lắc. Cả Hoa Kỳ có tới 16,000 mà riêng Florida đã có 1,260 sân gôn.
Ðối với một nước chỉ có 2 sân gôn khi chiến tranh chấm dứt năm 1975 và chẳng mấy người Việt Nam nào đánh gôn, nay có hơn 5,000 người chơi (có những ước lượng khác cho con số gấp đôi là ít) với số lượng sân gôn như vậy là một sự bùng phát.
Theo một bài viết của ký giả Seth Mydans trên báo New York Times, nhiều bài viết trên hệ thống báo của nhà nước kiểm soát và ý kiến của nhiều chuyên viên trong nước, ngay cả một số viên chức chính quyền trung ương, nói đến những tác hại của các dự án sân gôn ở Việt Nam (mất đất đai sản xuất lương thực, tổn hại môi trường) hơn là lợi ích cho quảng đại quần chúng.
Cái đáng để ý là nhiều dự án sân gôn lại do nhà cầm quyền các tỉnh cướp đất của nông dân, đền bù tượng trưng rồi ký hợp đồng cho một công ty ngoại quốc khai thác. Không ít những dự án này bề ngoài là làm sân gôn, nhưng thực sự lại dùng cho những mục tiêu khác.
Trước rất nhiều loạt bài viết trên hệ thống báo chí dẫn lời kêu khóc của nông dân mất đất, mùa Hè năm ngoái, Nguyễn Tấn Dũng, thủ tướng, đã ra chỉ thị tạm ngưng cấp thêm giấy phép xây dựng sân gôn. Rồi Tháng Sáu vừa qua, nhà cầm quyền trung ương ra lệnh bãi bỏ 50 dự án. Nhưng, hầu hết đã và đang được xây dựng nên đều không ngừng lại, ngoài 13 sân gôn đã có trước đây.
“Nhiều nhà đầu tư ngoại quốc và nhà phát triển sân gôn nói họ muốn làm Việt Nam thành một điểm đến du lịch. Muốn được vậy, phải có nhiều sân gôn.” Kurt Greve, quản lý viên người Mỹ của các sân gôn Ocean Dunes Golf Club và Dalat Palace Golf Club, phát biểu. Hầu hết du khách đều đến từ các nơi khác ở Á Châu, đặc biệt Nam Hàn và Nhật Bản, những nơi có sân gôn quá đông đúc.
Trong chiều hướng kỹ nghệ hóa, Việt Nam đã mất một lượng khá lớn đất nông nghiệp cho các xưởng sản xuất và các dự án khác. Theo Bộ Nông Nghiệp Việt Nam, đất trồng lúa chỉ còn 10.1 triệu mẫu, giảm xuống từ 11.1 triệu mẫu kể từ năm 2000 tới 2006.
Nhiều dự án sân gôn mới dường như dính tới tư bản nhiều hơn là với thể thao. Thuế đánh vào sân gôn lại thấp hơn những loại hình phát triển khác. Nhiều dự án sân gôn lại còn làm bình phong để phát triển địa ốc.
Chỉ có 65% đất dùng cho dự án sân gôn là cho sân gôn, theo ông Tôn Gia Huyên, một viên chức ở Hội Khoa Học Ðất Ðai Việt Nam, nói trong một cuộc hội thảo hồi Tháng Năm. Phần còn lại dành để xây khách sạn, nhà nghỉ dưỡng, biệt thự, du lịch sinh thái, hoa viên, nơi giải trí.
Nguyễn Ðăng Vang, phó chủ nhiệm Ủy Ban Khoa Học Kỹ Thuật và Môi Trường ở Quốc hội đề nghị đánh thuế sân gôn cao hơn.
“Sân gôn dành cho người giàu, chiếm một diện tích đất mênh mông, gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến an ninh lương thực, vậy phải đánh thuế cao hơn mới đúng.” Ông nói với báo Tuổi Trẻ hồi Tháng Bảy.
Và khi người giàu giải trí, nông dân và nói chung dân làng phải trả giá.
Phát triển một sân gôn có thể chiếm dụng đất của cả trăm thửa ruộng, đẩy đến 3,000 người ra khỏi khu vực, đôi khi là làm biến mất nguyên một xã, theo lời Nguyễn Ðức Truyền, một viên chức tại Viện Khoa Học Xã Hội. Ông nói trong một cuộc hội thảo gần đây. Một số rất ít những người này kiếm được việc làm ở sân gôn thì cũng chỉ là kẻ hầu hạ phục dịch cho kẻ giầu có, tư bản đỏ giải trí, thay vì làm chủ cánh đồng của mình, mảnh vườn gia đình mình, sinh sống thoải mái, biệt lập.
Một thí dụ. Sân gôn Ðại Lãi ở tỉnh Vĩnh Phúc đã làm cho hàng ngàn người địa phương mất nhà cửa và đất đai nhưng chỉ có 30 người trong số đó là kiếm được việc làm ở sân gôn, theo bài viết của VietnamNet hồi Tháng Bảy. Nông dân chỉ được đền bù từ $2 đến $3 đô la cho mỗi mét vuông đất bị thu hồi, bằng giá mua một bịch gạo.
Sân gôn cũng có nhu cầu sử dụng một lượng lớn nước để giữ gìn thảm cỏ hàng ngày tạo áp lực lớn cho khả năng cấp nước, theo lời Lê Anh Tuấn của Trung Tâm Kỹ Thuật Môi Trường Ðại Học Cần Thơ. Theo một vài con số ước lượng, một sân gôn 18 lỗ có thể tiêu thụ 5,000m3 nước một ngày, đủ cho nhu cầu 20,000 gia đình.
“Mùa khô rất cần nước.” Lê Tuấn Kiệt, người cầm đầu toán nhân viên giữ gìn thảm cỏ cho sân gôn Ocean Dunes, nói. Sân gôn này cách Sài Gòn 125 dặm về hướng bắc. “Tôi phải thường xuyên nói chuyện với sở nước, nhiều khi phải đấu tranh với họ vì không đủ nước cho người dân thành phố xài.”
Ông Greve nói các khu nghỉ dưỡng cố giới hạn các tác động tới môi trường nên một loại cỏ mới được trồng có khả năng chịu đựng muối mặn cao hơn và đòi hỏi ít nước ngọt hơn.
Sân gôn Sea Links Golf and Country Club xây dựng gần đó trên một số đụn cát, phải dẫn nước tưới xa từ hơn 3 cây số, theo lời Trần Quang Trung, một trong những giám đốc điều hành khu nghỉ dưỡng. Vòi tưới nước phun tự động cách nhau 15 phút và các ống nước dẫn nước nhỏ giọt xuống từng gốc cây.
Cái sân gôn 18 lỗ chỉ là một phần của dự án phát triển 420 mẫu đất đầy tham vọng. Từng dẫy biệt thự, có 315 tất cả, nằm đằng sau sân gôn như những hàng lính đi diễn hành. Nhiều căn đã bán xong trước khi được xây cất. Một khách sạn 5 sao nhìn ra sân gôn gần hoàn tất.
Sát ngay khu vực phát triển sân gôn, đất đỏ đã được cầy xới để xây khu chung cư 550 đơn vị nhìn ra biển. Trong tương lai, ông Trung nói cả khu được gọi là “Thành Phố Nối Biển“
Theo một phản hồi gửi trên Internet về bài viết của Seth Mydans, từ 15 đến 20% khách hàng đến chơi gôn ở Ocean Dunes Golf Club ở Phan Thiết là viên chức nhà nước giải trí hai ngày cuối tuần.
Tại Việt Nam, giới quí tộc đỏ muốn khoe sang cả khác người, họ tập chơi gôn. Nhiều năm trước, sở hữu một chiếc xe hơi, đeo tay một chiếc đồng hồ vàng Longines, đánh quần vợt là biểu hiện của sang giàu. Bây giờ phải đánh gôn, nói chuyện kỹ thuật cầm gậy đánh gôn.
Theo một bài viết trên VietnamNet ngày 9 Tháng Mười, 2008, có đến 39% nông dân ở khu vực Ðồng Bằng Sông Cửu Long không có ruộng để trồng cấy. Ngày 16 Tháng Chín, 2007, báo Tiền Phong nói ngay tại Hà Nội, hơn 70% nông dân sử dụng không hiệu quả tiền đền bù thu hồi đất. Xưa nay họ chỉ biết làm ruộng. Ðất bị tước đoạt, họ trở thành vô gia cư vô nghề nghiệp, cư trú tạm bợ đâu đó, ăn hết tiền đền bù là rơi vào đói nghèo, làm thuê làm mướn lang thang. (T.N)
Đỗ Hiếu, phóng viên RFA, Bangkok 2009-10-22 Tổ Chức Phóng Viên Không Biên Giới RSF từ Paris vừa phổ biến bản xếp hạng về tự do báo chí trên toàn cầu năm 2009, trong đó Việt Nam xếp thứ 166/175 quốc gia. Screen capture from RSF.org Trang web của RSF thông báo bảng xếp hạng về tự do báo chí trên tòan cầu Trên thế giới Trong số 10 quốc gia đứng cuối bản, bị xem là kẻ thù của truyền thông báo chí - internet, có 6 nước Châu Á, riêng Việt Nam thì xếp thứ 166 trên 175 quốc gia liệt kê trong danh sách. Đỗ Hiếu trình bày thêm chi tiết. Theo đánh gía của RSF, các quốc gia không có tự do báo chí, hạn chế quyền tự do ngôn luận, che dấu sự thật, ngăn cản nhà báo hành nghề, bỏ tù hay ám hại những người cầm bút, xét thấy bất lợi cho chế độ cầm quyền phi dân chủ, quân phiệt, độc đoán, gồm những nước thống trị bằng bạo lực, thường xuyên xảy ra xung đột quân sự, chiến tranh kéo dài, hay dung dưỡng tệ nạn tham nhũng, hậu quả hiển nhiên là ở những nước đó quyền làm người bị xâm phạm, chính quyền khóa miệng đối lập, bắt bớ, sách nhiễu những tiếng nói đấu tranh ôn hòa cho dân chủ và nhân quyền. Trong bản xếp hạng vừa được phổ biến, “bộ ba” luôn đứng chót là Bắc Hàn, Miến Điện và Lào do những thành tích như kiểm duyệt báo chí gắt gao, không cho phép tư nhân hoạt động trong ngành truyền thông đại chúng, giam nhốt, ám hại bất cứ ai muốn nói lên sự thật một cách công khai. Tại Việt Nam Khi giải thích về việc Hà Nội xếp hạng 166 trên tổng số 175 quốc gia được khảo sát, năm nay, ông Vincent Brossel - Giám Đốc Điều Hành RSF đặc trách Châu Á, cho Đài RFA chúng tôi biết đại ý là gần đây nhà nước Việt Nam, một chế độ cầm quyền độc đảng, đã gia tăng bắt bớ, xử phạt tù nhiều nhà báo, bloggers, những nhà hoạt động cho dân chủ, những cây bút tranh đấu cho quyền tự do ngôn luận, đặc biệt là những đối tượng công khai phê phán sự nhượng bộ mà Hà Nội dành cho Bắc Kinh về vấn đề lãnh thổ, lãnh hải, khai thác bauxite… Gần đây nhà nước Việt Nam, một chế độ cầm quyền độc đảng, đã gia tăng bắt bớ, xử phạt tù nhiều nhà báo, bloggers, những nhà hoạt động cho dân chủ, những cây bút tranh đấu cho quyền tự do ngôn luận, đặc biệt là những đối tượng công khai phê phán sự nhượng bộ mà Hà Nội dành cho Bắc Kinh về vấn đề lãnh thổ, lãnh hải, khai thác bauxite Ô.Vincent Brossel Vẫn theo ông Vincent Brossel, nhà nước Việt Nam thường xuyên kiểm soát chặt chẽ mọi phương tiện truyền thông, bưng bít sự thật, lọc lựa các nguồn thông tin mà họ chỉ muốn cho người dân nghe - biết, không chấp nhận báo chí tư nhân độc lập, cắt xén những vần đề bén nhạy, ngại làm phật lòng làng giếng khổng lồ phía Bắc: Kế đó, góp ý với RFA về thành tích của Việt Nam trong việc đối xử với nhà báo, blogger, người viết bài trên internet, các tiếng nói dân chủ, cô Dương Thị Xuân một cây bút độc lập ở Hà Nội nhấn mạnh: Nhà báo tự do Dương Thị Xuân : Tôi là ký giả tự do. Nói về vấn đề tự do báo chí ở Việt Nam thì tất cả mọi người đều biết rằng là Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng ký chỉ thị là không có báo chí tư nhân, cho nên cái vấn đề báo chí tư nhân ở Việt Nam là không có, còn những ký giả tự do như chúng tôi thì chỉ là ký giả tự do thôi, còn nếu làm là đi hành nghề báo tự do thì sẽ được cơ quan an ninh hỏi thăm ngay: "Thẻ nhà báo đâu? Ai cho hành nghề?" Ấy, cho nên vấn đề tự do báo chí ở Việt Nam là hoàn toàn không có. Thế hoạt động thế nào hả anh? Đúng không ạ? Bởi vì nói thật ra làm gì có tự do. Đây là tôi viết bài theo cái tâm tư của tôi thôi chứ còn nếu mà tôi hành nghề báo chí tại Việt Nam hiện nay thì sẽ được nhà cầm quyền bắt ngay. Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng ký chỉ thị là không có báo chí tư nhân, cho nên cái vấn đề báo chí tư nhân ở Việt Nam là không có, còn những ký giả tự do như chúng tôi thì chỉ là ký giả tự do thôi, còn nếu làm là đi hành nghề báo tự do thì sẽ được cơ quan an ninh hỏi thăm ngay Cô Dương Thị Xuân Trong một buổi phát thanh trước, qua câu chuyện với đài chúng tôi, từ Paris ông Benoit Hervieu cũng nhắc lại là qua đánh giá và đúc kết của RSF thì năm rồi Việt Nam cũng nằm trong danh sách 12 kẻ thù nguy hiểm nhất của internet. Trong bản xếp hạng tự do báo chí 2008 do RSF đúc kết, Hà Nội xếp thứ 168 trên 173 quốc gia được liệt kê Được biết, các nước Châu Á xếp hạng cao và trung bình trong danh sách của RSF gồm có Nhật Bản thứ 17, Đài Loan hạng 59 và Nam Hàn thứ 69. Sáu nước Châu Á xếp cuối bản là Campuchia, thứ 117, Việt Nam 166, Trung Quốc hạng 168, Lào 169, Miến Điện 171 và Bắc Hàn hạng 174. Đỗ Hiếu, RFA Bangkok, Thailand
BBC được tin một hội nghị về Biển Đông do Việt Nam chủ trì sẽ được tổ chức vào cuối tháng 11 tại Hà Nội.
Trước đây đã có một số hội thảo về Biển Đông ở trong nước, nhưng đây là cuộc gặp đầu tiên có tính quốc tế mà Việt Nam chủ xướng.
Giới chuyên gia cho rằng nó chứng tỏ nỗ lực của Hà Nội trong việc quốc tế hóa vấn đề Biển Đông, khu vực đang có tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ giữa một số quốc gia trong khu vực, trong có Việt Nam và Trung Quốc.
Hộị nghị "Biển Đông: Hợp tác vì An ninh và Phát triển Khu vực" sẽ diễn ra trong hai ngày 26/11 và 27/11. Học viện Ngoại giao và Hội Luật gia Việt Nam đồng tổ chức hội nghị này.
Danh sách khách mời bao gồm giới học giả, chuyên gia về luật pháp quốc tế và các vấn đề khu vực từ nhiều cơ quan nghiên cứu và trường đại học trên thế giới. Phía Việt Nam ngoài thành phần học thuật còn có đại diện của Ủy ban Biên giới thuộc Chính phủ Việt Nam.
Được biết các chủ đề chính trong hai ngày hội nghị là: "Ý nghĩa khu vực và toàn cầu của Biển Đông trong bối cảnh môi trường quốc tế đang thay đổi", "Các diễn biến mới tại Biển Đông và ảnh hưởng tới hòa bình, ổn định và hợp tác trong khu vực" và "Cách thức giữ hòa bình, ổn định và thúc đẩy hợp tác tại Biển Đông".
Giới quan sát nhận định các nỗ lực quốc tế hóa tranh chấp Biển Đông như thế này chắc hẳn sẽ không làm vừa lòng Bắc Kinh, vốn chủ trương giải quyết bất đồng thông qua đàm phán tay đôi với các nước liên quan.
Nguyên tắc song phương
Cuối tháng trước, Trung Quốc lên tiếng kêu gọi Philippines và các quốc gia liên quan về chủ quyền tại Biển Đông "gác bất đồng để cùng Phát triển".
Tuy dự án này đã hết hạn năm 2006, sau khi gây tranh cãi và bị phản đối ở Philippines, ông Lưu cho rằng cần nối lại sự hợp tác theo hình thức này.
Ông đại sứ nói: "Tình hình lúc này còn nhiều khó khăn, nhưng chúng ta cần kiên nhẫn. Chúng ta đang tìm cách giải quyết vì lợi ích của tất cả các bên liên quan."
Ông Lưu Kiến Siêu khẳng định Trung Quốc có chủ quyền "không thể chối cãi đối với quần đảo Nam Sa ( Trường Sa) và vùng biển xung quanh".
Tuy nhiên ông nói: "Trong khi giữ vững tuyên bố chủ quyền, chính phủ Trung Quốc muốn tìm cách giải quyết bất đồng thông qua thương lượng hòa bình trên nguyên tắc song phương với các nước có liên quan."
Tiến sỹ Ian Storey, chuyên gia từ Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS) đặt tại Singapore, nhận xét Bắc Kinh đã luôn luôn chủ trương giải quyết tranh chấp chủ quyền thông qua nguyên tắc song phương.
"Năm 1999, Trung Quốc có nhượng bộ khi chấp thuận bàn thảo về chủ đề chủ quyền lãnh thổ trên diễn đàn đa phương và sự nhượng bộ này đã dẫn tới Quy tắc ứng xử tại Biển Đông năm 2002."
Ông Storey cũng cho rằng bất cứ sự "song phương hóa" nào trong vấn đề này cũng làm Việt Nam và các nước khác trong khối ASEAN không hài lòng.
Câu chuyện “Anh hùng Lê Văn Tám” là chuyện giả đã được Sử gia Phan Huy Lê nói tới từ năm 2005, trong khi dự một buổi họp của Hãng Phim Truyền Hình Việt Nam; và năm đó nhật báo Người Việt đã đăng tin. Năm nay, Giáo Sư Phan Huy Lê chính thức viết kể đầy đủ câu chuyện giả mạo đó để trả nghĩa với người đồng nghiệp quá cố đã căn dặn nhờ ông cải chính. Kể từ năm 2005 đến nay, cả Bộ Thông Tin lẫn Ban Văn Hóa Tư Tưởng của đảng Cộng sản Việt Nam không nói hay làm một việc gì để xóa bỏ tên Lê Văn Tám trong các sách giáo khoa cũng như trên bảng tên các con đường, các công viên.
Họ “tảng lờ” đi, như không biết, không nghe, không thấy. Nhưng phải nói là họ vừa tự bịt tai, vừa tự bịt mắt! Vì không biết làm gì khác! Thường khi người ta nói dối rồi bị lộ thì có hai cách xử trí: Hoặc là công nhận mình đã nói dối, xin cải chính và xin tha lỗi. Hoặc là chối bay không nhận mình đã nói dối. Và như thế thường phải che khỏa, lấp liếm việc nói dối của mình bằng những lời dối trá mới.
Hiện nay đảng Cộng Sản Việt Nam không công nhận mà cũng không phủ nhận sự thật về vụ Lê Văn Tám. Họ ngậm miệng, bịt mắt và bịt tai. Ðảng tự làm như vậy, để bắt tất cả mọi người làm theo: Không nói, không nghe, không đọc. Báo chí, đài phát thanh, phát ngôn nhân chính phủ, cứ tự bịt mắt, bịt tai, viết, nói những điều hoàn toàn trái sự thật. Tin rằng cứ nói dối mãi thế nào cũng có người tin!
Ðó là chính sách của đảng Cộng Sản được thi hành từ thời 1945. Chính sách là cứ nói dối, nói những điều dối trá trắng trợn khó tin, bất kể sự thật. Ai tố cáo mình dối trá, ai nói ngược lại cũng cứ lờ đi, không thấy, không nghe. Cấm đoán không cho dân chúng được nghe, được thấy, được nói những lời nói khác. Ðợi sau khi đã giết hết những người tố cáo mình dối trá rồi, lúc đó chỉ còn một mình mình có quyền nói thôi, cuối cùng thiên hạ sẽ chỉ biết tin mình, không có cách nào khác.
Năm 1946, Hồ Chí Minh đã ký kết chấp nhận cho quân Pháp đổ bộ lên Bắc Việt thay thế quân Tầu. Mục đích của ông ta là khiến cho các đảng phái quốc gia không còn dựa vào thế lực của Quốc Dân Ðảng Trung Hoa nữa, nhưng ông ta giải thích cách khác. Ông nói một câu nổi tiếng, “Thà ăn cứt thằng Pháp 5 năm còn hơn ăn cứt thằng Tầu suốt đời.” Ai cũng phục là cao kiến, vì lịch sử Việt Nam vẫn còn ghi chép đầy chứng cớ.
Nhưng trong việc thỏa hiệp với quân Pháp, Hồ Chí Minh chỉ cốt có thời giờ để bắt đầu tiêu diệt những người không đồng ý với chủ nghĩa Cộng Sản. Các vụ ám sát, những cuộc tấn công vào trụ sở, căn cứ quân sự của các đảng quốc gia đã gây cảnh huynh đệ tương tàn trong khi kẻ thù đứng trước mặt sắp tấn công! Ðến khi đã thủ tiêu hết đối lập, chiếm độc quyền điều khiển chính quyền kháng chiến rồi, mà muốn “ăn cứt thằng Pháp” nó cũng không cho, thì Hồ Chí Minh bỏ qua câu nói nổi tiếng cũ, quay sang ăn của Tầu. Vì đó không phải Tầu Quốc Gia mà là Tầu Cộng Sản, những đồng chí anh em vô sản quốc tế của ông Hồ.
Theo Giáo Sư Qiang Zhai, trong cuốn “China and the Việt Nam War, 1950-1975” thì giữa năm 1946, khi Cộng Sản Trung Quốc bị quân Quốc Dân Ðảng đánh ở Quảng Ðông, một cánh quân đã chạy sang Việt Nam và được Cộng Sản Việt Nam tiếp tế, đổi lại họ huấn luyện quân sự cho bộ đội Việt Nam. Cộng Sản Tầu có dịp bắt đầu một chương trình “diễn biến hòa bình” ở trên nước Việt Nam sau khi chiếm được lục địa. Ngay từ năm 1950 các cố vấn Ðậu Kim Ba, Ðặng Dật Phàm đã bắt cải tổ quân đội, bãi bỏ những sĩ quan có gốc là học sinh, sinh viên, trí thức, để thay bằng các chiến sĩ gốc bần cố nông hoặc thợ thuyền lên nắm quyền điều khiển quân đội. Ðó là một cách chia rẽ để tiêu diệt sinh lực một dân tộc, tạo nên một lớp người mới chỉ biết học tập theo Mao Chủ Tịch. Lúc các cố vấn Tầu sang chỉ huy từ việc quân sự đến cải cách ruộng đất như thế, thì không còn ai đứng ra tố cáo Hồ Chí Minh đem cả nước đi “ăn” của Tầu nữa!
Vì lúc đó những người đã biết và từng tố cáo Hồ Chí Minh chỉ là cán bộ phục vụ cộng sản đệ tam quốc tế đều đã bị thủ tiêu hoặc phải chạy ra nước ngoài sống cả rồi. Ngay năm 1946, 47, lúc mới bắt đầu cuộc kháng chiến, những người bị giết là những Khái Hưng, Nhượng Tống, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ, cùng bao nhiêu chiến sĩ Quốc Dân Ðảng, Ðại Việt, Phục Quốc khác. Chạy ra ngoài bảo toàn được mạng sống có những Nguyễn Tường Tam, Nghiêm Kế Tổ, Hoàng Ðạo, vân vân. Cuối cùng, chỉ còn các cán bộ cộng sản của ông Hồ chiếm độc quyền ngôn luận, nói gì dân cũng phải tin vì không thấy ai nói ngược lại! Cho nên họ có thể vẽ ra những huyền thoại về Hồ Chí Minh cũng như huyền thoại Lê Văn Tám vậy!
Nhưng liệu đảng Cộng Sản bây giờ có thể cứ theo đúng chính sách bịt tai, bịt mắt, của ông Hồ được hay không? Khó lắm. Vì vào những năm 1945, 50 đầu thời kháng chiến thì phương tiện truyền thông ở nước ta không có bao nhiêu. Nắm được cái loa cầm tay ở đầu làng là làm chủ “thông tin, văn hóa, tư tưởng” được rồi. Còn bây giờ trên trái đất đã có Internet, ở Việt Nam nhiều nơi cũng có. Cho nên nói dối bây giờ rất khó. Không ai có thể nói dối tất cả mọi người mãi mãi được.
Có lẽ ông Trần Huy Liệu cũng biết trước như vậy, cho nên ông đã ủy thác cho sử gia Phan Huy Lê làm công việc cải chính huyền thoại Lê Văn Tám. Bởi vì ngay trong thời gian Trần Huy Liệu dựng ra chuyện đó, đã có người nghi ngờ là một thiếu niên sau khi tẩm xăng tự đốt thì không thể chạy xa để tới gần kho xăng được. Lý luận này đăng trên tờ báo Thời Mới ở Hà Nội, một tờ báo ngoài tầm kiểm soát của cộng sản. Ngoài ra, một vụ đốt cháy kho xăng lớn thế nào cũng có nhiều người tham dự, chủ mưu; sẽ có ngày họ xuất hiện nói lên sự thật; khi đó thần tượng Lê Văn Tám cũng sẽ bị lật mặt giả dối. Ðối với Trần Huy Liệu, tốt nhất là tự mình tìm cách cải chính chuyện gian dối đó, để khi chuyện lộ ra thì mình đỡ mang tiếng.
Nhưng là người đi theo cộng sản đã lâu năm, ông Trần Huy Liệu biết tự bảo vệ tính mạng mình. Xóa bỏ một huyền thoại do đảng dựng lên là điều nguy hiểm. Vì không những nó làm cả hệ thống thần linh của đảng bị mất một huyền thoại mà còn làm cho người ta nghi ngờ cả hệ thống đó còn nhiều điều gian trá khác. Người ta sẽ hỏi, “Sau Lê Văn Tám là ai?” “Lê Văn Tám đã vậy, còn Võ Thị Sáu, còn Minh Khai, còn Hồ Chí Minh thì sao? Cái gì thật, cái gì giả?” Một sự không tin, vạn sự không tin, người dân sẽ nghi ngờ cả đảng cộng sản! Cho nên ông Trần Huy Liệu không dám tự mình viết, dù chỉ viết một câu thôi, thí dụ: “Tôi, Trần Huy Liệu, xác nhận câu chuyện Lê Văn Tám tẩm xăng tụ đốt là hoàn toàn do tôi bịa đặt vì nhu cầu tuyên truyền để kháng chiến chống Pháp.” Viết một câu như thế mà ai bắt được thì chắc chắc sẽ bị thủ tiêu, bị đắm đò hay xe đụng lúc nào không biết!
Cho nên ông Trần Huy Liệu muốn cải chính nhưng cũng chỉ dám dặn dò bằng lời nói, không dám viết một chữ. Lúc đó là vào thập niên 1960, ông Phan Huy Lê cũng không dám xin ông Liệu viết mấy chữ làm bằng cớ. Vì có đứa nào nó tố cáo, bị bắt với bằng cớ đó thì cả hai thầy trò sẽ khó sống.
Nhưng tại sao đến bây giờ ông Phan Huy Lê mới chính thức công bố câu chuyện Lê Văn Tám? Thực ra thì giới sử học ở Việt Nam đã “thăm dò” vấn đề này qua những bài viết tên tạp chí Xưa và Nay trong năm 2003, và báo Thế Giới từ năm 2004 rồi. Năm 2005, ông Phan Huy Lê đã nói đầy đủ hơn, một cách bán chính thức, trong một cuộc họp về phim truyền hình, nhưng chưa chính thức viết ra. Ðến năm nay thì ông đã viết thẳng thành bài, vì không khí trong cả nước Việt Nam đang thay đổi.
Bây giờ người dân Việt Nam không còn tin đảng Cộng Sản nữa, mà cũng không còn sợ nữa. Cả guồng máy tuyên truyền đang trở thành bất lực, nói cái gì người dân cũng nghi là dối trá. Các mạng lưới thông tin mới đóng góp với hệ thống tin đồn, rỉ tai cũ của người dân. Sang thế kỷ 21 này, việc nói dối còn khó hơn thời 1960. Ai muốn trình bày một sự thật nào, thì đây là lúc có thể nói ra. Trước chính sách bịt mắt, bịt tai của đảng Cộng Sản, bất cứ ai giúp cung cấp thông tin, mở mang kiến thức của đồng bào, thì bây giờ là lúc nên làm!
Một dấu hiệu cho thấy dân Việt Nam không còn sợ nữa, là quyết định tự giải tán của các nhà lãnh đạo Viện Nghiên Cứu Phát Triển (IDS). Trước “quyết định số 97” của Nguyễn Tấn Dũng bịt mồm bịt miệng giới nghiên cứu khoa học, phản đối mãi không được việc gì, các nhà nghiên cứu chỉ có cách bày tỏ sự phản kháng là tự đóng cửa.
Ngày 14 Tháng Mười vừa qua, Nguyễn Tấn Dũng lại dọa rằng sẽ “xử lý những phát biểu thiếu tinh thần xây dựng của một số cá nhân thuộc Viện Nghiên Cứu Phát Triển.” Thái độ này cho thấy cả guồng máy thống trị của đảng Cộng Sản vẫn theo chính sách cũ từ thời Hồ Chí Minh: Bịt miệng thiên hạ. Không bịt miệng được thì dọa sẽ “xử lý!” Dọa rồi mà vẫn không công hiệu thì dọa nữa! Có thể nói trong việc đối phó với phong trào đứng lên đòi quyền được tự do phát biểu của giới trí thức Việt Nam, đảng Cộng Sản đang lâm vào ngõ bí.
Trong khi đó, giới trí thức Việt Nam đã phản ứng với thái độ dũng cảm hơn: Không sợ. Ông Nguyễn Quang A, nguyên viện trưởng IDS còn gửi thư lên Bộ Tư Pháp và Quốc Hội đòi “xử lý” cái Quyết Ðịnh 97, phi pháp và xâm phạm quyền làm người đó. Ông sẵn sàng đi theo nhưng ông Phạm Văn Trội, Vũ Hùng, Nguyễn Xuân Nghĩa, và hàng chục nhưng nhà trí thức khác đã vào tù vì lên tiếng đòi các quyền dân chủ tự do cho tất cả mọi người dân Việt Nam.
Người Việt Nam khắp nơi hoan nghênh những người có thái độ can đảm của các nhà trí thức đòi tự do dân chủ. Họ tin tưởng vào khả năng xét đoán của dân Việt Nam, cho nên họ can đảm nói lên khát vọng tự do của toàn dân, và trình bày những sự thật mà đảng cộng sản vẫn che dấu. Người Việt Nam có quyền được nghe, được thấy, được tiếp nhận các thông tin đúng. Không ai có quyền bịt mắt bịt tai một dân tộc.
Gần đây, các chuyên gia của Đại Học Harvard đưa ra một số nhận định về thực chất của giáo dục Đại học tại Việt Nam hiện nay cũng như một số khuyến nghị cho Bộ Giáo dục Việt Nam.
AFP PHOTO
Học sinh, sinh viên Việt Nam tìm hiểu về hệ thống giáo dục Hoa Kỳ.
Tính xác thực
Trong Tờ trình gửi Uỷ ban Đặc nhiệm Hỗn hợp về Giáo dục Đại học Việt Nam, hai chuyên gia của Trường Chính Quyền Học Kennedy tại Đại Học Harvard là Thomas Vallely (Giám Đốc Chương Trình Việt Nam) và Ben Wilkinson cho rằng đang có sự khủng hoảng suy sụp trong nền giáo dục đại học Việt Nam.
Để tìm hiểu thêm và vấn đề này, Thanh Quang hỏi chuyện Giáo sư Tạ Văn Tài từng giảng dạy tại Đại học Harvard. Trước tiên Giáo sư Tải nhận định:
GS Tạ Văn Tài: Tôi đồng ý với đa số ý kiến và bất đồng về một số ý kiến khác trong tờ trình. Tôi đã quen biết ông Vallely từ lâu, từ hồiông còn là phó cho một bà Giám đốc tiền nhiệm của chương trình Việt Nam và nhờ tôi gặp dại sứ Việt Nam Bùi Xuân Nhậttại Liên Hiêp Quốc ởồi chưa có bỏ cấm vận nên chưa có toà Đại sứở Hoa Thịnh Đốn) để nhắc nhởệt Nam chưa cử hai ứng viên du học đến Harvard, nơi đã cấp hai học bổng, cho nên trong quá trình ông Vallely làm việc dài dài, nhiều năm cho chương trình Việt Nam để cử sinh viên du học qua Harvard, chương trình Fulbright v.v… New York (h sao Vi
Tôi đã thấy ông rất thương mến sinh viên Việt Nam và lo cho tiền đồ tương lai của dân tộc Việt Nam, mặt khác ông có cá tính là cựu thuỷ quân lục chiến Mỹ, cho nên ông là người thẳng tính, sẵn sàng nói mạnh mẽ ý kiến của ông chẳng e dè ai.
Vậy thì những ý kiến của ông phê bình đại học Việt Nam suy sụp trầm trọng, tôi có thể hiểu được đó là sự thành tâm lo lắng khẩn thiết của ông cho tương lai Việt Nam, muốn như một bác sĩ giỏi và tận tâm, cho thuốc đắng giã tật, chữa cho các căn bệnh trầm trọng của nền đại học Việt Nam. Có mấy ý kiến liệt kê như sau về đại học Việt Nam, mà tôi đồng ý một phần:
a)Thành tích xuất bản các công trình nghiên cứu rất nghèo nàn, thí dụ vào năm 2007, Đại học Quốc gia Việt Nam chỉ có 52 công trình xuất bản, Viện Khoa Học Công Nghệ có 44 công trình, thua xa các đại học Quốc Gia Seoul của Đại hàn (5060 công trình), Singapore (3598 công trình), Đại Học Bắc Kinh (3219), Đại Học Fudan (2343 công trình), Đại Học Mahidol và Chulalongkorn của Thái Lan (950 và 822) v.v…
Thành tích về bằng sáng chế của Việt Nam là số không, so với Đại Hàn có 102.633 bằng sáng chế, Trung Quốc có 26.292 bằng sáng chế, Singapore 955, Thái Lan 158, Mã Lai 147, Phi Luật Tân 76...
Tờ Trình báo động là nếu không cấp thời cải cổ thể chế cho giáo dục đại học, Việt Nam sẽ thất bại hoàn toàn trong mục tiêu phát triển tiềm năng to lớn của mình.
GS Tạ Văn Tài
b)Không huấn luyện sinh viên đúng nhu cầu kinh tế, do đó 50% sinh viên tốt nghiệp đại học không tìm được việc làm đúng nghề chuyên môn, sự chuẩn bị sinh viên đi vào nghề nghiệp chuyên môn đã bị tồi tệ vì 25% giáo trình bắt buộc tập trung vào gíáo điều chính trị (political indoctrination).
Tìm trong sinh viên không đủ nhân công chuyên môn hay các nhà quản trị giỏi cho nền kinh tếệt Nam. Tờ Trình báo động là nếu không cấp thời cải cổ thể chế cho giáo dục đại học, Việt Nam sẽ thất bại hoàn toàn trong mục tiêu phát triển tiềm năng to lớn của mình. Vi
c)Việt Nam có ước vọng xây dựng đại học có phẩm chất quốc tế nhưng hiện nay không có một đại học Việt Nam nào được xếp vào hàng đại học có phẩm chất của Á Châu. Tờ trình này nói rằng trái với sinh viên Trung Quốc và Ấn Độ, sinh viên Việt Nam không cạnh tranh nổi đểược thâu nhận vào những chương trình cao học thượng thặng tại Hoa Kỳ và Âu châu. đ
Tôi thấy có lẽ ông Vallely, trong khi điều khiẻn chương trình Việt Nam ở Harvard và nhất là lại được Bộ Ngọai Giao Mỹ cho thầu lại việc tuyển lựa sinh viên cho chương trình Fulbright., đã có dịp thấy trong những sinh viên xin vào chương trình cao học ở Mỹ, người giỏi thì thường là đã đi du học sang Liên Sô hay Đông Âu trưóc đây rồi bây giờ sang Mỹ lấy thêm bằng Mỹ, còn người xuất thân từ đại học Việt Nam thường kém (có lần ông nhờ tôi làm người dịch hay hỗ trợớp cho một sinh viên từ Việt Nam đã được gửi gắm qua học tại trường Công QuyềnHọc Kennedy, vì thế nên Harvard miễn cưỡng nhận, nhưngkém quá cần có người dạy kèm—nhưng tôi thấy việc dạy kèm hay dịch giùm này mất nhân vị cho tôi, là nhân viênnghiên cưú ban giảng huấn bên trường Luật Harvărd, nên tôi từ chối.) trong l
Một nữ sinh viên đang trình bày trước lớp tại trường đại học RMIT ở Sài Gòn.
Nhưng tôi phải nói là tôi không có khuynh hướng nói qúa khẳng định về phẩm chất kém cỏi của Đại học Việt Nam, theo kiểu ông Vallely và Wilkinson nói mạnh, vơ đũa cả nắm—
Thanh Quang:Như vậy ý kiến của Giáo sư ra sao?
GS Tạ Văn Tài: Tôi nghĩ rằng khi nói về phẩm chất nền đại học ở Việt Nam cũng nhưở Mỹ, ta phải phân biệt các đại học đẳng cấp cao và các đại học đẳng cấp thấp, thí dụở Mỹ, có nhiều đẳng cấp, từ hạng siêu (như Harvard, Yale...) đến hạng đẳng cấp quốc gia (national universities and colleges), đến lọai đại học thuộc hạng có vị thếở địa phương (regional universities, colleges) đến các lọai đại học cộng đồng (Community colleges).
Tờ trình của ông Vallely và Wilkinson quên mất sự khác biệt tại Việt Nam giữa một bên, là các đại học mở rộng, chuyên tu, tại chức… với sự thu nhận sinh viên bưà bãi không có trình độ, với sự huấn luyện lỏng lẻo thiếu tiêu chuẩn, thiếu phương tiện (theo một tờ trình hồi năm 1992 của UNESCO, 66% đại học, phần lớn là các đại học có sĩ số dưới 800,chỉ có phòng ốc tồi tệ, với thư viện và máy móc trang bị rất giới hạn.)
Chúng hạ thấp phẩm chất nền đại học Việt Nam xuống một mức trung bình thấp, và một bên, là các đại học quốc gia có thi tuyển sinh viên và học trình và ban giảng huấn quy cũ hơn.
Ngoài nhà nước, các trường đại học cũng phải thấy không thể thâu nhận bừabãi và cho ra trường các sinh viên trong các ngành nghề ít việc làm, nghĩa là phải cố gắng cho số cung đi sát số cầu trong thị trường nhân lực.
GS Tạ Văn Tài
Tôi có diễn giảng khoá huấn luyện ngắn hạn về luật thương mại và đầu tư quốc tế tại Đại Học Kinh tế thành phố Hồ chí Minh, thì thấy trình độ sinh viêncũng khá, và nhất là rất hiếu học muốn giao lưu với các nguồn kiến thức mới (tôi dùng sách giáo khoa dùng trong Đại HọcLuật Harvard, dịch ra tiếng Việt, nhưng sinh viên ưa sách tiếng Anh và tự chụp hình in lại cuốn đó).
Tôi cũng không thấy Tờ Trình “chẩn bệnh đúng nguyên nhân” của cái nạn 50% sinh viên tốt nghiệp không kiếm được việc, vì lý do khônghẳn là học nhiều giờ chính trị, đó chỉ là một phần, lý do chính làtuy nhà nước không còn ép sinh viên đi vào các ngành này kia như thời kỳ kinh tế hoạch định cứng rắn, nhưng mà nhà nước, từkhi chuyển sang kinh tếthịtrường, chưa đưa racác con số thống kêvề nhu cầu các ngành nghề có triển vọng trong thị trường tương lai, để các cá nhân sinh viên tự quyết định chọnngành nghề cho sát nhu cầu nền kinh tế.
Ngoài nhà nước, các trường đại học cũng phải thấy không thể thâu nhận bừabãi và cho ra trường các sinh viên trong các ngành nghề ít việc làm, nghĩa là phải cố gắng cho số cung đi sát số cầu trong thị trường nhân lực.
Nguyên nhân khủng hoảng
Thanh Quang:Gíao sư nhận xét như thế nào về các nguyên nhân tạo ra khủng hoảng đại học ở Việt Nam, mà Tờ Trình đã đề cập tới?
GS Tạ Văn Tài:Đây là vấn đề tôi cũngcó một số ý kiến khác với Tờ Trình. Tôi đồng ý với Tờường lối quản trị đại học của nhà nước đã tạo ra phẩm chất suy trầm của nền đại học:tập trung quyền về trung ương mà không cho tự trị và tự quản đại học, do đó tiêu diệt hay giảm đi cácsáng kiến vàsự tận tâm say mê công việc. Trình là đ
Tuyển chọn và thăng thưởng nhân viên, cung cấphay phát các nguồn tài trợ ngân sách (cho nghiên cứu chẳng hạn), không theo khả năng và thành qủa công việc nhiều, mà theo thâm niên, lai lịch chính trị hay liên hệ cá nhân, kèm theo sự ác cảm của các cấp quản trị cao trong đại học, thường được huấn luyện từ Liên Sô và Đông Âu, đối với các nhân viên trẻ tuổi giáo dục từ các nước Âu Mỹ.
Giáo trình không được tự do như bên Trung Quốc, tuy rằng đã dần dần cởi mở hơn, khiến cho thiếu năng động trí thức; và cũng vì thiếu năng động trí thức cho nên các học gỉa trẻ không thểưu dễ dàng được với các nguồn kiến thức bên ngoài. giao l
Nhưng có điểm tôi không đồng ý với Tờ Trình là cho rằng nền đại học Việt Nam yếu kém vì nó thừa kế nền đại học thời thực dân Pháp, và đến khi dộc lập thì bị chiến tranh và cai trị dộc tài mà không có chỉ đạo để xây dựng nền đại học có phẩm chất cao.
Pháp đã du nhập nền đại học có phẩm chất cao vào Việt Nam, với quan niệm đồng hóa giai cấp thống trị bản xứ vào nền văn minh Pháp, theo sứ mạng văn minh hóa của Pháp (mission civilisatrice), khiến đại học Đông Dương, nhất là y khoa, dược khoa, luật khoa, và khoa học trởơi huấn luyện các tầng lớp ưu tú (elite) của Việt, Mên và Lào. thành n
Những sinh viên tốt nghiệp Đại học Đông Dương sang Pháp thi Tiến sĩ, thạc sĩ luật (nhưVũ Văn Mẫu), tiến sĩ, thạc sĩ kinh tế (như Vũ Quốc Thúc, Nguyễn Cao Hách), Tiến sĩ Toán ( Đặng Đình Áng),đã là những người xây dựng nền đại học Việt Nam sau khi Pháp rút lui năm 1954 tại miền Nam Việt Nam.
Nơi đâyđã tiếp tục một nền đại học tốt đẹp, thí dụ riêng về ngành luật, đã tạo ra một học trình với các sách giáo khoa tốt, các người tốt nghiệp có khả năng, mà sau này các người sống trong chế độ Việt Nam Cộng Sản cũng phải công nhận là có phẩm chất cao: thí dụ Luật sư Lê Công Định phải viết bài công nhận giá trị Đại học Luật Khoa Saigon trước 1975; Giáo sư Hoàng Ngọc Giao của Phân Khoa Luật Đạì học Quốc Gia Hà Nôi du học tại Boston, muốn nhờ chúng tôi tìm các sách giáo khoa tốt của các giáo sư quốc tếcông pháp của Đại Học Luật Saìgon trước 1975.
Từ 1954 đến 1975, từ các đại học Miền Nam Việt Nam, đã nhiều sinh viên du học sang Pháp, Đúc, Anh,Úc , Nhật và Hoa Kỳ v.v.. và thành công, nhiều khi ngay trong năm đầu, ở các đại học ở các nước ấy, rồi đậu bằng đại học Âu Mỹ dễ dàng, và hàng loạt, trong đủ các ngành, kể cảử lực,nhiều người đậu đến bằng tiến sĩ , chứng tỏ nền dại học Miền Nam Việt Nam có phẩm chất và đào tạo người giỏi. nguyên t
Những sinh viên học trong đại học Pháp thành lậpthời thuộc địa mà sau này góp phần xây đựng nền đại học ởMiền Bắc Viêt Nam trước năm 1954, như tiến sĩ luật Đỗ Xuân Sảng, Nguyễn Mạnh Tường , bác sĩ y khoa khoa trưởng trường Y Hoàng Đình Cầu (mà sau 1975, báo chí Mỹ đã biết tới), bác sĩ Tôn Thất Tùng, giáo sưToán học Hoàng Tụy là bằng chứngsống về nền đại học tốt do Pháp xây dựng tại Việt Nam, còn để lại ảnh hưởng ngay tại Miền Bắc Việt Nam.
Tương lại đại học VN?
Thanh Quang:Giáo sư nhận thấy Tờ Trình vừa nói có ghi nhận lạc quan hay bi quan gì vế triển vọng tương lai của nền đại học Việt Nam không ?
GS Tạ Văn Tài:Tôi thấy Tờ Trình có nếu hy vọng về tương lai đại học Việt Nam nhưng rất dè dặt và tôi cùng thấy Tờ Trình chưa chú trọng nhiều lắm về đãi ngộ và mực sống của các giới chức giảng huấn đại học, điều mà tôi muốn bổ túc cho Tờ Trình.
Tờ Trình có nói đến Nghị quyết 14 muốn cải tổ toàn diện gíao dục đại học vào năm 2020, cho phép tự trị nhiều hơn và sự tuyển chọn dụa trên thành quả, và nhà nước đã đặt ưu tiên về giáo dục đại học trong 3 năm qua. Đó là những điểm hy vọng.
Nhưng Tờ Trình cho rằng tốc độ cải tổ còn rất chậm, và nhất là nhà nước vẫn muốn ôm giữền hành theo não trạng kế hoạch tòan diện từ trung ương, nhất là muốn giũ quyền phân phối các ngân khoản tài trợ của các cơ quan quốc tế, khiến cho khó lập đối tác với các đại học Mỹ vốn tự trị đến mức rất cao. quy
Tôi cũng thấy Tờ Trình nói một cách không lạc quan cho lắm về các yếu tố quốc tế giúp đỡ nền đại học Việt nam. Thí dụ: nói rằng việc cử sinh viên du học , gia tăng rất mau những năm gần đây, nhất là sang Mỹ, cũng không thể là gỉai pháp cho nền đại học Việt Nam, vì du sinh chỉ là một số cực nhỏ, gồm nhũng gia đình có tiền cho con cái du học hay những ai may mắn xin đựơc học bổng.
Tờ trình cũng nóicác khỏan tài trợ của các cơ quan quốc tế không được phân phối theo tiêu chuẩn khả năng, còn các đại học quốc tế đi vô Việt Nam huấn luyện thì phần lớn chỉ nhắm trục lợi thu học phí từ sinh viên theo các ngành thực dụng, nhưng học phí cao này chỉ một số trảổi, đại chúng không kham nổi. n
Việt Nam muốn lập một hay vài đại học thuộc loại “đẳng cấp quốc tế” và từ 2005 đã tranh thủự hỗ trợ của Mỹ, với việc Thủ tướng Phan Văn Khải, trong cuộc viếng thăm Harvard năm 2005,yêu cầu Harvard gíúp. s
Năm 2006 , Thủ Tướng Khải ký quyết định về đại học đẳng cấp quốc tế vànăm 2007, Chủịch Nưóc Nguyễn Minh Triết thăm Hoa Kỳ và tiếp tục thúc đẩy Hoa Kỳ giúp. Năm 2008, Thủướng Nguyễn Tấn Dũng thăm Hoa Kỳ và ký bản ghi nhớ về việc lập vài trường đại học Hoa Kỳ tại Việt Nam. T T
Tháng 6/2009, Việt Nam tuyên bố vay Ngân Hàng Thế Giới và Ngân Hàng Phát Triển Á Châu 400 triệu Mỹ Kim để xây 4 trường đại học đẳng cấp quốc tế (Việt -Đức, Khoa Học Công Nghệội, Đà Nẵng, Cần Thơ). Hà N
Tờ Trình của Harvard nói về tham vọng lập đại học đẳng cấp quốc tế của Việt Nam như sau:
Tuy biết Việt Nam rất mong thu hút sự tham gia hợp tác của các đại học hàng đầu tại Hoa Kỳ, các đại học danh tiếng tại Hoa Kỳ sẽ không vào Việt Nam theo kiểu các nhà đầu tư, tức là sẽạ thấp tiêu chuẩn của mình đểthu lợi tài chánh, nếu chính quyền Việt Nam “không quyết tâm theo đuổi các tiêu chuẩn một đại họctốt”, tức là “tự do trong giáo trình” (được tự do đưa vô gíao trình và việc nghiên cứu các đề tài mà không phải tham khảo trước với bộ giáo dục—về điểm này. không h
Nếu Quyết định 97 mới ban hành gần đây, mà Tờ Trình Harvard không nói tới—nóđưa ra một danh sách hạn chế các dề tài có thể bàn luận khoa học vàdo đó có thể cớ hại cho việc nghiên cứu khoa học và việc thành lập được các đại học đẳng cấp cao) và “tự quản, tự trị”, theo đó chính quyền chỉ dóng vai hạn chế, vàđại học sẽ tìm các nguồn tài trợgiảng huấn và nghiên cứu ngoài ngân sách nhà nước.
Tờ Trình kết luận là Uỷ Ban Hỗ Hợp Đặc Nhiệm về Giáo Dục Đại Họcsẽ có một vai trò đặc biệt trong việc vẽ một lược đồ toàn diện cho việc cải tổ giáo dục đại học và xúc tiếnviệc cải cách.
Thanh Quang: Thưa GS, dường như Tờ Trình này quên đề cập tới việc đãi ngộ qua lương bổng và ngân khỏan nghiên cứu cho các giáo sư đại học ở VN?
GS Tạ Văn Tài:Chúng tôi bổ túc cho Tờ TrìnhHarvard: đó là sự đãi ngộ bằng lương bổng và các ngân khỏan nghiên cứu sao cho cuộc sống vật chất đàng hoàng hơn để các giáo sư có thể tận tụy vào việc nghiên cứu. Hiện nay, tình trạng lợi tức đại khái như sau:
(1) Theo các tờ trình tin tức, 30% sinh viên Việt Nam du học (có thể nói là thành phần trí tuệọn lọc) không muốn về nước, và muốn ở lại ngoại quốc kiếm tiền nhiều hơn lương bổng thấp kém trong đại học Việt Nam; việc xây dựng đại học Việt Nam bị thiệt mất lực lượng nhân sự đó (trong khiđó thì, như một số nhà nghiên cứu đã chỉ ra, số lượng trí thức Việt Kiều tuổi trẻ và trung niên về nước khá quan trọng, đem theo không nhũng trí tuệ, mà còn cảvốn đầu tư, các sự quen biết và liên hệở hải ngoại, và kinh nghiệm về thị trường quốc tế--còn trí thức hải ngoại ở tuổi hưu thì có thể nâng cao trình dộ cho giới chuyên môn trong nước—Xin xem Đề Án của Bộ Ngoại Giao Việt Nam về việc“thu hút trí thức ,chuyên gia người Việt ở nước ngoài trong việc xây dựng đất nưóc”); ch
(2) Lương bổng giáo chức đại học Việt Nam được coi là thấp nhất thế giới, theo chính thông tin của nhà nưóc trong trang nhà về giáo dục : trong khi lương giáo sư đại học trung bình tại các nước Á Châu là 1,000 Mỹ kim, thìở Việt nam, giáo chức đại học, ngoài cảm tưởng các ý tưởng cải tổ giúp nước bị coi thường, họ chỉ có lương căn bản trung bình là 150 Mỹ Kim, dạy thâm niên 15 năm thì 170 Mỹ Kim, thâm niên 30 năm, đến tuổi sắp về hưu ,thì 279 Mỹ Kim; mỗi giờ dạy sẽ tính thêm tiền giờ phụ trội, do đó lương ngừoi mới vô nghề có thể là 200 Mỹ Kim; còn nều có thêm tiền do dự án nghiên cứu thì có thể có lợi tức tới 500 Mỹ Kim một tháng (tin tức này do sự trao đổi trong website của các giáo sư Mỹ và Việt có kinh nghiệm tại Việt Nam) ;
(3) Nhưng kiếm được dự án nghiên cứu trong ngân sách nhà nước Việt Nam thì là cả một sựạnh tranh trong bầu không khí phân biệt đối xử dựa trên vây cánh và chính trị; còn các nguồn tài trợ nghiên cứu cuả các cơ quan quốc tế như các quỹ tặng lập (Foundations) thì ít giáo sưệt Nam biết tới;vả lại nhà nước, theo chính sách, có lẽ học của Nga , là không dễ dãi cho các tổ chức phi chính phủ (non-governmental organizations—đang bàn rất kỹ về luật chi phối các tổ chức này), có lẽ ngại sự trưởng thành của các tổ chức trong khu vực tư (Ford Foundation đã đóng cửa ở Việt Nam, sau nhiều năm làm nhiều việc ích lợi); c Vi
(4) Rút cục thì trí thức đại học Việt Nam hoặc là phải dạy thêm rất nhiều giờ, có khi đã dạy 20 giờ một tuần mà còn phải dạy thêm giờ nưã (vả lại đại học cũng có khi bắt họ dạy thêm giờ đểợp đồng kiếm thêm tiền của chính đại học), bỏ bê việc nghiên cứu, không còn khả năng xây dựng đại học đẳng cấp cao với các công trình nghiên cứu khám phá kiến thức mới; hoặc là bỏ nghề giáo chức đại học để ra ngoài làm việc cho các công ty ngoại quốc, kiếm gấp đôi lương bổng (thí dụ,làm cho hãng ngoại quốc có thể kiếm mỗi tháng 1,000 Mỹ Kim với bằng cử nhân đậu tại hải ngoại, hay 2,000 Mỹ Kim với bằng chuyên môn cao cấp (tiến sĩ..). thi hành các h
Nhà nước sẽ thua cuộc, mất nhân tài, trong cuộc cạnh tranh thị trường nhân công trí thức cấp đại học, nếu không có sự đãi ngộ xứng đáng đối với họ.
GS Tạ Văn Tài
Thanh Quang:Như vậy kết luận của GS là gì?
GS Tạ Văn Tài: Nhà nước phải thấy rằng nhà nước sẽ thua cuộc, mất nhân tài, trong cuộc cạnh tranh thị trường nhân công trí thức cấp đại học, nếu không có sự đãi ngộ xứng đáng đối với họ.
Rất không nên triệt tiêu các quyền lợi của các giáo sư học gỉa, dù đến tuổi hưu, nhưng còn khảụcác phương tiện giao dịch của họ với các đồng nghiệp và cơ quan, nhưchỗlàm việc, điện thoại (đừng có cắt điện thoại của họ ngay khi hồi hưu như đã cắt điện thoại của Giáo sư Viện Trưởng Đaị học An Giang Võ Tòng Xuân, người đã có công lao xây dựng Đại học Cần Thơ và An Giang, và có khả năng vận dụng các nguồn tài trợ quốc tế cho đại học Việt Nam). năng đóng góp, thí d
Việc đãi ngộ xứng đáng trí thức trong nước cũng cần đẻ tránh tình trạng mà Bộ Ngoại Giao Việt Nam đã tả trong “Đề Án Thu Hút Trí Thức Chuyên Gia Ngườì Việt ở nứơc ngoài”: “Trí thức trong nước chưa được trọng dụng, được trả lương xứng đáng, nên việc ưu đãi Việt kiều gây so bì, bất hợp tác. Ngoài ra còn có tâm lý lo ngại trí thức Việt kiều về sẽ làm bộc lộ sự yếu năng lực chuyên môn hoặc chiếm mất vị trí của người trong nước. Đây cũng là một trở ngại khi đưa ra bất cứ kiến nghị nào ưu đãi trí thức Việt kiều”.