Translate

Tuesday, November 30, 2010

Dân biểu Cao Quang Ánh vận động đòi chế tài Việt Nam

Theo VOA News

Dân biểu sắp mãn nhiệm Cao Quang Ánh

Dân biểu Cao Quang Ánh

Dân biểu sắp mãn nhiệm Cao Quang Ánh, dân biểu gốc Việt đầu tiên tại Quốc hội Hoa Kỳ, đang tận dụng những tuần lễ cuối cùng của mình tại Hạ viện để thúc đẩy các biện pháp chế tài vì điều mà ông gọi là những vi phạm nhân quyền của Việt Nam.

Theo tường trình của The Hill và NewsMax, ông Ánh đã đưa ra hai dự luật hôm 18/11, gồm Đạo luật Thúc đẩy Dân chủ ở Việt Nam 2010 (Vietnam Democracy Promotion Act of 2010) và Đạo luật Chế tài Việt Nam vì thành tích Nhân quyền (Vietnam Human Rights Sanctions Act).

Đạo luật Thúc đẩy Dân chủ ở Việt Nam gồm có các chương trình hỗ trợ tài chính cũng như các chương trình giáo dục và các tái định cư cho người tị nạn. Đạo luật này cũng áp đặt các điều kiện đối với các khoản viện trợ cho Hà Nội và đòi hỏi phải có các bản báo cáo thường niên.

Đạo luật Chế tài Việt Nam gồm các biện pháp chế tài về tài chính và từ chối thị thực đối với các giới chức Việt Nam vi phạm nhân quyền.


Cũng theo The Hill, ông Ánh, người sẽ có cuộc gặp với đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ vào ngày 30/11, nói rằng chính quyền của ông Obama vẫn chưa trả lời ông về dự luật này, tuy nhiên ông cho rằng họ sẽ ủng hộ việc trừng phạt những cá nhân chịu trách nhiệm về những vụ vi phạm nhân quyền.

Trước đó, trong một thông cáo báo chí đưa ra hồi tháng 7, ông Cao Quang Ánh cho rằng Việt Nam đã thụt lùi về mặt nhân quyền kể từ khi gia nhập WTO năm 2007; do đó, thay vì xây dựng quan hệ chặt chẽ hơn, Hoa Kỳ nên tiếp tục gây áp lực cho tới khi nào Việt Nam cải thiện thành tích nhân quyền.

Ông Ánh cũng đã đề nghị đưa Việt Nam trở lại vào danh sách các quốc gia cần đặc biệt quan tâm về tự do tôn giáo (CPC).

Ông Ánh, một đảng viên Cộng hòa, đã giành chiến thắng bất ngờ năm 2008 tại New Orleans sau khi một ứng viên thuộc đảng Dân chủ dính líu tới một vụ bê bối tham nhũng. Tuy nhiên, ông đã thất bại trong cuộc chạy đua tái tranh cử vào cơ quan lập pháp của Hoa Kỳ hồi đầu tháng này.

Nguồn: The Hill, NewsMax

Monday, November 29, 2010

Nợ xấu của Vinashin đe dọa một số ngân hàng Việt Nam

Theo RFI

Vinashin đã trở thành biểu tượng của tập đoàn kinh tế Nhà nước làm tổn hại công quỹ.
Vinashin đã trở thành biểu tượng của tập đoàn kinh tế Nhà nước làm tổn hại công quỹ.
DR
Đức Tâm

Báo trên mạng Bloomberg cho biết là theo nhận định của công ty tư vấn tài chính Moody, nợ của Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Vinashin tương đương khoảng 3% tổng số tiền cho vay của một số ngân hàng Việt Nam. Vinashin, hiện đang đứng bên bờ vực phá sản, khó có thể thanh toán các khoản nợ đáo hạn và điều này có nguy cơ gây khó khăn cho các ngân hàng Việt Nam.

Trong một nghiên cứu được công bố ngày hôm nay, 29/11/2010, bà Karolyn Seet, chuyên gia phân tích tại Singapore thuộc công ty Moody's, cho biết là ngày 19/11, tập đoàn Vinashin tuyên bố có thể hoãn trả 60 triệu đô la đáo hạn trong khoản vay 600 triệu đô la, trong lúc chính phủ Việt Nam dường như không muốn giúp đỡ giải quyết những khó khăn tài chính.

Vừa qua, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã cho thay thế ban lãnh đạo Vinashin và chính phủ thông báo tiến hành cơ cấu lại doanh nghiệp này. Trong khi đó, lãnh đạo mới của tập đoàn, ông Nguyễn Ngọc Sự khẳng định lại rằng Vinashin sẽ tự cơ cấu lại trên cơ sở những gì còn lại của doanh nghiệpTập đoàn này.

Theo chuyên gia Seet, việc hoãn trả một khoản nợ dài hạn đi kèm với việc chính phủ không hỗ trợ, có thể buộc các ngân hàng Việt Nam phải cơ cấu lại khoản nợ của Vinashin, gây thiệt hại cho các ngân hàng này.

Tháng 8 năm nay, chính phủ Việt Nam thông báo, nợ của Vinashin tính cho đến tháng sáu, lên tới 86 ngàn tỷ đồng, tương đương 4,4 tỷ đô la.

Trước đây, giới phân tích nghĩ rằng chính phủ Việt Nam sẵn sàng ứng cứu, cấp vốn cho bất kỳ ngân hàng nào gặp khó khăn. Nhưng nhìn vào vụ Vinashin, thì trong tương lai, không có gì chắc chắn là chính phủ sẽ giúp đỡ các ngân hàng khi rơi vào tình trạng thiếu hụt các phương tiện thanh toán.

Theo số liệu của Bloomberg, Vinashin đã phát hành 16,2 tỷ đồng công trái và khoản vay này sẽ được thanh toán vào tháng tư năm 2017. Chi nhánh ngân hàng Deutsche Bank Vietnam cho biết, lãi suất danh nghĩa là 9%, tuy nhiên, do thị trường thiếu tin tưởng vào khả năng tài chính của Vinashin, lãi suất của công trái này đã lên tới 21,16% ngày hôm nay.

Lãnh đạo một số các ngân hàng cho vay của Việt Nam, đặc biệt là các ngân hàng thương mại cổ phần, cho biết, Vinashin là con nợ lớn nhất của họ. Trong khi đó, đa số các khoản cho vay không được khấu trừ và được coi là loại tín dụng đặc biệt.

Bản nghiên cứu của công ty tư vấn Moody's nhận định, vụ Vinashin cho thấy chính phủ không thể cùng một lúc hỗ trợ các tập đoàn và khu vực ngân hàng. Điều này làm các ngân hàng lo ngại bị mất vốn khi cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhà nước. Hiện nay, tổng tín dụng cấp cho các doanh nghiệp nhà nước chiếm tới 40% khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

Sunday, November 28, 2010

Công An Bạo Lực Giải Tỏa Đất: Còng Tay, Đè Đàn Bà, Trẻ Em

Việt Báo Thứ Bảy, 11/27/2010

Công An Bạo Lực Giải Tỏa Đất: Còng Tay, Đè Đàn Bà, Trẻ Em

Công an còng tay dân để giải phóng mặt bằng? Bản tin báo Lao Động, dựa theo thông tấn Bee, cho biết như trên.
Bản tin ghi theo lời chị Lê Thị Khanh (40 tuổi), trú tại số nhà 1, đường Trưng Nữ Vương, phường Phú Bài, thị xã Hương Thủy, Thừa Thiên - Huế, vì không cho giải tỏa khi chưa nhận được tiền đền bù đất, chị và con gái bị công an phường còng tay, khiến con gái nhập viện còn mẹ bị ngất xỉu.
Chị Lê Thị Khanh kể lại sự việc: “Khoảng 9h ngày 25/11, lực lượng công an, dân phòng, một số cán bộ phường và cán bộ giải phóng mặt bằng đến yêu cầu giải tỏa. Tôi yêu cầu: Các anh viết cho mấy chữ rằng đã lấy 26,7m2 đất để thi công nhưng chưa đền bù đất. Sau lời yêu cầu của tôi, họ trả lời không văn bản gì hết.
Và một số người vào ôm lại, người cầm tay, có một anh công an còng hai tay tôi đưa sang một căn nhà hoang bên kia đường từ 9h đến 11h. Do mấy hôm nay tôi bị bệnh xoang nên bị ngất, sau đó mọi người đưa vào bệnh viện”.
Cũng theo chị Khanh, vào năm 2009 dự án mở đường 2/9 triển khai, nhà chị có 26,7m2 bị giải tỏa. Chị đã ký vào văn bản giao đất cho ban đền bù giải phóng mặt bằng nhưng đến nay chưa có tiền đền bù nên không cho giải toả.
"Trước đó, mở đường Trưng Nữ Vương nhà tôi cũng bị giải tỏa một phần đất nhưng cũng không được đền bù, tôi đã viết đơn thư đi nhiều nơi nhưng chưa được giải quyết" - chị Khanh trình bày.
Gia đình chị Khanh, chồng mất sớm chỉ có 4 mẹ con nuôi nhau sống qua ngày.
Em Trần Thị Khánh Huyền (18 tuổi, con gái chị Khanh) đang được các bác sĩ theo dõi và điều trị tại buồng điều trị 1, Khoa ngoại, Bệnh viện Đa khoa thị xã Hương Thủy, kể lại sự việc:
"Sáng nay thấy các chú công an còng mẹ, em chạy ra để can ngăn thì có một người phụ nữ ôm ngang bụng, hai người đàn ông cầm hai tay, hai người cầm hai chân, trong năm người này có một người dùng cùi tay đè đầu em.
Khi em cố thoát chạy thì mọi người kéo em lại không cho đi. Sau đó, một chú công an lấy còng còng tay phải em vào cửa sổ nhà.
Sự việc xảy ra từ 9h30 đến 11h thì em được thả, sau đó em đau quá được mọi người đưa vào bệnh viện. Trong số hai chú công an, thì em có biết một người tên là Long còng tay em vào cửa sổ".
Tuy nhiên, công an đã chối. Bản tin Lao Động và Bee ghi lời Trung tá Nguyễn Sỹ Hùng, Trưởng Công an phường Phú Bài, nói rằng công an có đi giải tỏa, nhưng không còng tay hay đè bà Khanh và con gái.
Trong khi đó, bản tin ghi thêm, “Một bác sĩ ở bệnh viện cho biết: Bệnh nhân Khánh Huyền bị chấn thương phần mềm ở vai và cổ tay, hiện bệnh viện đang theo dõi và điều trị.”


Saturday, November 27, 2010

NHÂN MÙA TẠ ƠN TRÊN ĐẤT MỸ (2010), XIN ĐƯỢC CÁM ƠN CÁC ANH : NGƯỜI TPB/VNCH

Theo Trachnhiemonline.com

Mường Giang

Kính tặng tất cả TPB/VNCH

Những ngày tháng Tư năm đó, không biết sao mà trời bỗng đổ mưa thật sớm và lớn hơn bao giờ hết. Mưa làm ngập những chiếc hố tránh đạn và giao thông hào của những người lính trận, tại các chiến trường máu lệ Phước Long, Phan Thiết, Long Khánh, Hậu Nghĩa, Long An, Phước Tuy, Biên Hòa và Sàigòn.

Trong cơn mưa nước mắt năm ấy, có máu, thây người và xác của những cánh hoa học trò, làm nhuộm hồng áo người lính và đồng bào chiến nạn, chạy theo cơn mưa, mịt mù đạn pháo.

"B Đào m tu, d quang bôi

Dc m tỳ bà, mã thượng thôi

Tuý nga sa trường, quân mc vn?

C lai chinh chiến, k nhân hi"

Bốn câu thơ cổ trong bài "Lương Châu Từ" của Vương Hàn (687-726) đã nói lên thân phận của người lính chiến, sống và chết không có biên giới, nên mấy ai dám nghỉ tới chuyện trở về? Và giọt mưa nào đây vừa lăn trên má, đã khiến cho người lính già bồi hồi nhớ lại, một thời chinh chiến cũ, những căn hầm tránh pháo ngập mưa, những nấm đất đào đấp vội vàng, để vùi bạn vữa ngã gục và những thương binh rên xiết, đang chờ cấp cứu.

Tất cả đã thành cổ tích. Giờ chỉ còn biết ngồi đây mà nhớ lại những ngày xa cũ. Chúng ta, tất cả đều là những người VN tội nghiệp, trót đầu thai lộn trong thế kỷ này, nên đã cùng nối vai lần lượt bước lên những giàn lửa đỏ. Cuối cùng, kẻ chết thì bị dầy mồ, tan xác, còn người sống, nếu không sống kiếp mây chiều lang thang, thì cũng lết lê phận bèo trong vùng giặc chiếm, để gục đầu thương hận, mà khóc cho quê hương vì đâu máu xương chất ngất, vì đâu mà kiếp sống của con người, tới nay vẫn không bằng cây cỏ bên đường.

Tất cả chỉ còn là kỷ niệm trong nhớ, vào những ngày đầu đời, mẹ bỏ con trong gánh, dầm mưa chạy loạn, giữa tiếng bom đạn, máy bay gầm thét, của Việt Minh và Pháp. Tóm lại, chúng ta đều ra đời và trưởng thành trong tiếng súng, cùng với bom đạn làm rách vỡ da thịt của quê hương. Rồi cũng vì người, vì tang bồng hồ thỉ nam nhi trái, mà giốc cả tuổi trẻ, đời trai, vào cốc men đắng cay, uống cạn hạnh phúc của chính mình.

Đất nước hai mươi năm chinh chiến, hai mươi năm dài hờn hận, đã dày vò người lính miền Nam, trong mưa bom đạn xéo trùng hằng. Rốt cục những người nằm xuống, những kẻ ra đi hay ở lại chịu cảnh ngục tù khổ sai của VC, ai nấy cũng đã trả xong cái nợ "da ngựa bọc thây", tủi nhìn từng trang lịch sử của nước nhà, bị giặc thù bôi nhọ và khép kín.
Trưa 30-4-1975 Sàigòn thất thủ, miền Nam VN từ bên này cầu Hiền Lương, trên sông Bến Hải, chạy ngang vĩ tuyến 17, tới mũi Cà Mâu, đã chính thức thuộc về lãnh thổ Xã Hội Chủ Nghĩa đệ tam quốc tế cộng sản, có tổng đài ở tận Nga Sô. Cũng từ giờ phút đó, khi mà chiếc mặt nạ hòa bình của người cộng sản đã cởi, để lộ những khuôn mặt thật của các thây ma vô hồn, lạnh băng và hung hiểm, thì cũng là lúc, đồng bào mới sực tỉnh và thương tiếc người lính VNCH. Nhưng than ôi tất cả đã muộn rồi, họ đã ngã gục không phải tại chiến trường vì đạn pháo của VC, mà ngay trên hè phố Huế, Đà Nẵng, Phan Thiết, Sàigòn... bởi chính những viên đạn ích kỷ, hám danh, những miệng lưỡi ngòi bút, của chính phe mình.

Ai chẳng một lần về với đất? khác chăng là sớm hay muộn, vinh với nhục và sống chết sao cho ý nghĩa của một kiếp người. Chỉ tội nhất là những người lính chưa chết nhưng coi như đã chết vì thương tật chiến trận và những vết thương lòng. Họ không chết mà chỉ bị thương nặng và tất cả đã gởi lại chiến trường một phần thịt da của mẹ, ở Khánh Dương, Tháp Chàm, Phan Thiết, Xuân Lộc... và ngay tại Sàigòn, vào lúc mà cây cột đèn cũng muốn chạy, để khỏi bị VC nhổ đem đi bán. Họ ở lại làm vật hy sinh cản xe tăng, hứng đại pháo của giặc thù, để kiếm thêm một chút thời gian, một bầu trời an toàn, một dòng sông lặng sóng, giúp cho mọi người từ dân tới lính, bình yên di tản ra nước ngoài, để tiếp tục sinh con đẻ cháu, ăn học thành tài và thành người ngoại cuộc..

Nay thì từ quan tới lính, ai cũng kiếm cách đi khỏi quê nhà, bỏ lại những bóng ma của quá khứ và những người thương phế binh sống sót, tủi hờn, đang lê lết phận bèo khắp đầu đường xó chợ. Thời gian có thay đổi, lịch sử cũng sang trang nhưng thân phận của người thương binh và gia đình của họ, chẳng có gì mới lạ, vẫn lấy nước mắt làm mưa rửa mặt hằng ngày. Buổi trước, khi VC tràn vào, họ bị bỏ lại ở những quân y viện, làng phế binh, không còn đại bàng, đồng đội và hậu phương. Bây giờ thì dần hồi chết đói, chết nhục trong thiên đàng xã nghĩa, trước sự xa hoa thừa mứa của VC, Việt Gian và Việt kiều muôn phương, vinh quy bái tổ, áo gấm về làng, mà trong dòng người đổi đời này, không làm sao mà đếm hết, những cấp chỉ huy và đồng đội cũ.

Có làm lính mới cảm thông cho kiếp lính nghiệt ngã đoạn trường. Có làm dân thời ly loạn mới biết được thế nào là mạng sống của con người, giữa bom đạn vô tình, héo úa còn thua cây cỏ. Có là người thương phế binh sau khi xuất viện, bỏ lại một phần cơ thể, mới thật tội nghiệp cho tuổi trẻ bạc phước vô phần. Thê thiết tận cùng là đời của người lính về chiều lại còn mang thương tật. Hỡi ôi những mảnh đời cùng khốn ấy rồi sẽ đi về đâu, trong cảnh mưa gió phũ phàng của cuộc đời? "ngày xưa, là lính vì đời chiến đấu là cầu đem người sang sông, hôm nay làm ma cô đơn, gục chết bên vệ đường..."

1.Thân Phận Người Lính VNCH :

Đọc Congressional Record, một trong những tài liệu tuyệt mật của Tòa Bạch ốc vừa được công bố, đã làm cho những lính già của VNCH phải cười ra nước mắt và thương xót cho những đồng đội, đồng bào, suốt hai mươi năm qua, vì chiến đấu chống sự xâm lăng của Bắc Việt, mà chết oan hay bị mang thương tật do đạn bom và bàn tay VC gây ra. Những luật lệ kỳ quái như Lính Mỹ không được bắn VC, trừ phi chúng tấn công trước. Không lực Mỹ không được dội bom vào xe của VC khi chúng ở cách đường mòn Trường Sơn 200m. Phi cơ Mỹ không được tấn công phi cơ Mig nếu chúng không gây hấn, không dội bom các phi cơ VC đậu yên tại phi trường. Cuối cùng, nghiêm cấm quân Mỹ truy đuổi VC, khi chúng chạy sang Lào và Kampuchia.

Chính phủ Hoa Thịnh Đốn, chẳng những cấm Quân Lực Mỹ, Đồng Minh, VNCH không được thẳng tay tiêu diệt kẻ thù, mà còn báo trước những bí mật quân sự, quốc phòng cho VC biết trước, qua những lần oanh tạc tại miền Bắc, trên đường mòn HCM, hành quân Lam Sơn 719... Đó là tất cả những sự kiện lịch sử có thật, được Thứ Trưởng QP Mỹ Phil Golding, thời TT. Johnson, trả lời thắc mắc của hàng ngàn gia đình tử sĩ Hoa Kỳ: "Chúng ta đang tham gia vào một cuộc chiến giới hạn, với những mục tiêu hạn chế. Nói chung đây là một cuộc chiến vì chính trị, nên không thể tiêu diệt VC được".

Do sự phản ứng càng lúc càng đông của người Mỹ, trước cái gọi là "đánh không cần thắng", nên dân chúng đã xuống đường, đả đảo mà báo chí thời đó, gọi là do phản chiến giựt dây. Thật sự, người Mỹ đã quá chán ngấy cái trò đem con bỏ chợ, đem trứng cho ác, dai dẳng từ thời Kennedy, Johnson, kế đó là Nixon, nên đã giận dữ đòi Hoa Thịnh Đốn "Hãy cút khỏi VN ngay, hãy chấm dứt cái trò chiến tranh nướng thịt dai dẳng vô ích này."

Tóm lại qua cuộc chiến VN, do đầu óc con buôn, người Mỹ đã đánh mất tất cả mọi ý thức về trách nhiệm và danh dự, làm tiêu tốn hơn 150 tỷ mỹ kim tiền đóng thuế của dân chúng, hại cho 55,000 chiến sĩ bị chết oan và hơn 300,000 quân nhân các cấp bị thương tật. Trong khi đó, người lính VNCH, dù là một quân đội bất hạnh nhất thế giới, theo báo cáo của MACV, Command History hay Dwight Owen, một cố vấn Mỹ tại VN, thì đối với các quân nhân VNCH, Chỉ Có Chết, Tàn Phế Hay Đào Ngũ, mới mong giải thoát được cái thân phận bọt bèo của người Lính chiến trong thời loạn lạc.

Ngoài ra, tài liệu cũng có nói tới việc lính Nam VN đào ngũ, nhưng không phải họ đầu hàng VC, mà trở về quê nhà gia nhập lực lượng ĐPQ+NQ, để được chiến đấu bên cạnh vợ con, gia đình. Sau rốt, tính đến đầu năm 1975, QLVNCH đã có 231,508 tử sĩ và 95,371 phế binh. Thương tủi nhất là những ngày tháng sau đó, cho tới khi Nam VN sụp đổ vào ngày 30-4-1975, đã có hằng vạn dân lính vô tội gục ngã trên chiến trường và khắp các nẻo đường chạy loạn. Nhiều tử sĩ cũng như thương binh đã bỏ thây, bỏ xác tại chỗ, vì đồng đội không thể làm gì hơn giữa chốn loạn quân. Chính Nhảy Dù từ ngày thành lập cho tới khi tan hàng, cũng đã phải nuốt lệ, bỏ lại xác đồng đội, tại Mặt Trận Xuân Lộc tháng 4-1975, như Phạm Huấn đã viết, khi được lệnh rút quân bất ngờ trong đêm, mịt mù lửa đạn.

Trước sự sụp đổ nhanh chóng và vô lý của Nam VN không phải tại chiến trường, mà ngay ở các thành phố lớn Ba Lê, Hoa Thịnh Đón, New York, Luân Đôn, La Mã, Huế-Đà Nẵng và Sàigòn, khiến cho nhiều trí thức ngoại quốc đã phẫn nộ và bày tỏ thái độ khinh miệt, đối với một số người trong cũng như ngoài nước, một thời lợi dụng tự do, dân chủ và nghề nghiệp, để bẻ cong ngòi bút, xuyên tạc sự thật, phỉ báng đồng bào và quân đội Nam VN với mục đích đầu độc dư luận thế giới, giúp Bắc Việt cưỡng chiếm VNCH. Đề tài quen thuộc, được một số báo chí Hoa Kỳ và Tây Phương viết lách, đem lên truyền thanh truyền hình, đó là người lính VNCH hèn nhát không chịu chiến đấu nên bị mất tự do và bị người Mỹ khinh miệt.

Hai câu hỏi trên cách đây vài chục năm được bịa chuyện là có, nhưng bây giờ sự thật đã xác nhận "Không". Hoa Kỳ khi tới chiến đấu tại Nam VN, có đủ phương tiện tinh thần cũng như vật chất, vẫn nhiều lần bị thương vong, bại nhục, vẫn không thiếu những binh sĩ đào ngũ, bỏ chạy khi trận địa hỗn loạn, vẫn có tham nhũng và chính cựu TT. Bill Clinton, vì hèn nhát nên đã trốn quân dịch pháp định. QLVNCH chỉ mới thành lập, được coi là một quân đội nghèo nhất trên thế giới, lại bị chiến đấu trong một cuộc chiến không có giới hạn chiến trường, hậu phương, bạn địch.

Thế nhưng những người lính nghèo đó, mà lương năm cộng với tiền tử tuất, phế tật, không bằng một cuốc rượu của những ca ve, me Mỹ, vậy mà họ vẫn một đời đem máu đào xương trắng, phụng sự chính nghĩa, bảo vệ màu cờ, sắc áo và từng sinh mạng cũng như tất đất của quê hương. QLVNCH là sinh mạng của muôn người, nên khi thiếu vắng hay không còn họ, mạng người Nam VN chỉ còn là lá rụng, đã gục ngã tại Mậu Thân Huế-Sàigòn, trên các đại lộ kinh hoàng quốc lộ 1, Kontum, An Lộc mùa hè đổ máu và sau rốt là cùng nhau chết tập thể vào ngày 30-4-1975. Như sử gia Edward S. Creasy viết trong tác phẩm nổi tiếng "Fifteen Decisive Battle Of The World" năm 1851 "Tầm quan trọng của một cuộc chiến, là những gì ta có hôm nay, đối với người thắng cũng như kẻ bai". Những gì đã xảy ra tại Nam VN, sau 35 năm bị cộng sản cưỡng chiếm, đã đủ trả lời về tấn thảm kịch của VN, mà lần nữa Robert S. McNamara, cựu bộ trưởng QP. Thời TT Kenedy, đã giải thích một chiều, trong hồi ký của mình "In Retrospect-The Tragedy and Lesson of VN".

Nhưng không phải tất cả người Mỹ đều mù quáng và tin tưởng vào truyền thông báo chí lúc đó. Chính những giờ phút cuối cùng, nhìn cảnh đời bi thảm của phận lính bọt bèo Nam VN trên màn ảnh, tờ The New York Times Service, đã thay thế người nhược tiểu, giận dữ tố cáo chính quyền Mỹ là hèn nhát, bỏ đồng minh tháo chạy về nước trước sự tấn công của VC. Họ cũng nêu đích danh Henry Kissinger là kẻ bán đứng VNCH cho VC khi bắt ép họ ký vào bản hiệp ước giả mạo 1973, sau đó tàn nhẫn cúp viện trợ, phủi tay đứng nhìn miền nam sụp đổ.

Không có gì tồn tại với thời gian trừ chân lý. Vì vậy những câu chuyện hề của Henry Winston chủ tịch đảng cộng sản Mỹ, đem diễn tại Hà Nội vào tháng 5-1975, hay lời tuyên bố vung vít của Nguyễn Hữu Thọ, chủ tích bù nhìn của Mặt Trận Ma giải phóng tại Mạc Tư Khoa, ngay khi Sàigòn thất thủ: "cám ơn báo chí và ký giả Tây Phương, đã góp phần lớn cho chiến thắng của Hà Nội, trong số này đáng kể là người Mỹ".

Đây là tất cả sự thật, vừa được một cựu chiến binh Không Quân Hoa Kỳ là Harry H. Noyes, thay mặt những người lính VNCH, qua tác phẩm "Heroic Allies" nói lên vinh quang và sự hãnh diện của một quân lực, từ lâu đã bị bọn trí thức vô liêm sỉ, tước đoạt một cách hèn hạ, bất nhơn và vô nhân đạo. Sự tuyên truyền lố lăng và cuồng ngạo của Hà Nội cùng những mặt mo bưng bợ, làm cho thiên hạ năm châu chán ghét, sau khi cái thây ma VNCH chỉ còn trơ lại bộ xương gầy đét, không còn gì để cho Huỳnh Liên, Ngô Bá Thành, Huỳnh Tấn Mẫm, Chân Tín và một số quạ đen, diều hâu, bu tới rỉa rói như lúc chợ còn đông khứa.

Trong tài liệu đặc biệt "How Media Bias Distorts Our View of the World" của ký giả Allan Brownnfiels, nói rằng vì hầu hết giới truyền thông Tây Phương, quá mù quáng, ca tụng một chiều về Mao Trạch Đông và Fidel Castro, trong lúc thẳng tay sỉ nhục bôi nhọ Tưởng Giới Thạch và chính phủ CuBa lúc đó, tuy vô tình nhưng đã làm cho cộng sản tại hai nước này chiến thắng mau lẹ. Bài học của lịch sử sau đó lại tái diễn ở Nam VN. Lần này do chính những thành phần được ưu tiên trạng trọng trong xã hội lúc đó, là những công tử tiểu thư đài các của giới địa chủ, địa hào, thương gia, chủ vựa nước mắm, nhờ cha mẹ tổ tiên theo thực dân Pháp bóc lột đồng bào, nên có tiền, có thế, cho con trai, con gái qua Pháp, Mỹ du học thành luật sư, bác sĩ, giáo sư, những thành phần mà Hồ Chí Minh và đảng VC ở miền Bắc, chém giết và khinh bỉ tận tuyệt, sau khi được làm chủ nửa miền đất nước vào năm 1954.

Nhờ cái mặt nạ trí thức và sự tự do quá trớn của Nam VN, những thành phần ăn chén đá bát này, luôn bẻ cong ngòi bút, làm cho thế giới tự do lầm lạc, nghĩ rằng giặc Cộng tại Nam VN là những người bình thường, yêu nước, nên nổi dậy chống lại sự độc tài tham nhũng của chế độ. Tóm lại nhờ những trí thức này, mà VC nằm vùng sau ngày tập kết 1954, VC chính thống từ Miền Bắc xâm nhập, kể cả Tàu Cộng, Liên Xô, Cu Ba, Đông Âu... trong bộ đội Hà Nội đang chiến đấu tại Nam VN, đều không có dính líu tới Hồ và cộng sản đệ tam quốc tế. Sự độc ác trên, nhờ tuyên truyền ngay ở miền Nam và các mạng lưới quốc tế, khiến cho cuộc chiến chống xâm lăng cộng sản, của người Việt quốc gia Nam VN, mất đi cái ý nghĩa chính thống, làm cho Hoa Kỳ cũng gặp nhiều khó khăn khi sang chiến đấu bảo vệ tiền đồn chống cộng ở Đông Nam Á. Rốt cục, cả Mỹ lẫn Việt đều đại bại trước mặt trận thông tin ca ngợi VC, của báo chí, truyền thông ngoại quốc và ngay trong nước.

Từ năm 1965, Hoa Kỳ bắt đầu đổ quân dồn dập vào Nam VN, cũng là thời kỳ lửa máu ở hậu phương. Đây cũng là thời kỳ ăn nên làm ra, của những thông tín viên, ký giả ngoại quốc, qua những bài tường thuật, có kèm hình ảnh, không phải để phổ biến những sự thật, mà chỉ để tuyên truyền một chiều, nhằm bôi nhọ những quân đội, đang trực diện với cộng sản Bắc Việt, trên chiến trường Nam VN. Có thể nói bài phóng sự chiến trường đầu tiên, của thông tín viên đài CBS tên Morley Safer, viết về cuộc hành quân của một đơn vị TQLC Mỹ, tại một làng xôi đậu, đã trở thành những mẫu thông tin "ăn khách", theo đơn đặt hàng của thị trường Mỹ và Tây Phương lúc đó. Cũng nhờ báo chí phản tuyên truyền về cuộc chiến Tết Mậu Thân 1968 “ VC chết thảm khắp nơi, đã thành chiến thắng, chiếm được ngay cả Tòa Đại Sứ Mỹ ở Sàigòn “. Tàn nhẫn và đáng khinh tởm nhất, là báo chí Tây Phương, trong suốt cuộc chiến Nam VN, đã không hề có một chữ tường thuật những hành vi khủng bố, giết người tàn bạo của VC trong trận Mậu Thân 1968 tại Huế, năm 1972 trên Đại Lộ Kinh Hoàng tại KomTum, Bình Đinh, An Lộc, Quảng Trị và những ngày di tản máu lửa hận hờn.

Người lính VNCH vừa đánh giặc phương Bắc, vừa chống đỡ búa rìu truyền thông báo chí trong nước cũng như phong trào phản chiến tại Mỹ và tây phương, được liên kết bởi trí thức, sách báo và tuyên truyền. Đó cũng là lý do đưa đến sự sụp đổ tất yếu của một dân tộc hiền hòa, lễ nghĩa nhưng bất hạnh vì mang thân phận nhược tiểu

2. Thương Quá Người Phế Binh VNCH:

Tất cả hình như chỉ còn có kỷ niệm sau cuộc đổi đời. Là định mệnh mà chúng ta, những kiếp trai thời loạn phải gánh chịu theo vòng đời nổi trôi của dòng sông lịch sử, dù vô lý, dù hờn căm, dù bất công thương hận.

Mất nước nhà tan, nguời lính sống sót sau cuộc chiến, rã ngũ tan hàng đầu sông cuối bể, tha phương thì dần chết trong men đời cay đắng, còn tù ngục chịu cảnh nhục hờn. Nhưng tất cả giờ cũng đã đi hết rồi, chỉ còn ở đây là những thương phế binh xa cũ, những hồn ma cô quạnh, sống với quá khứ liệt oanh, qua những vết thương đời không hề hối hận:

"Di tn khó, sâu dòi lúc nhúc

Trong vết thương người bn nín rên

Người chết my ngày không ly xác

Thây sình mt nát, lch mương tanh..."

(Tô Thuỳ Yên)

Ta thán phục, ta hãnh diện biết bao, khi đọc được những trang sử cũ. Sẽ vui cười hớn hở cùng với tiền nhân qua những lần giết đuổi giặc Tống, Mông, Minh, Thanh..tận ải Chí Lăng, trên sông Bạch Đằng, đốt tàu Pháp tại Vàm Nhật Tảo. Không biết những trang quân vương dũng tướng thời xưa, hành xử thế nào mà muôn người như một, khiến cho người trong nước, già trẻ lớn bé, đều nguyện một lòng giết giặc cứu nước tại Hội Nghị Diên Hồng. Sau này mới vỡ lẽ, thì ra đó là tinh thần trách nhiệm, cũng như bổn phân của kẻ sĩ thời tao loạn. Hay đúng hơn, đó là đức tính cao quí của thanh niên-sĩ phu, dù họ chỉ là những người bình dân ít học.

"Tôi không là tôi na,

T khi được xut ngũ

Có qu đen đu trên đu

Có bao nhiêu đi ch đau kh.

.."

Thanh niên VN thời nào cũng vậy, tất cả đều đặt trách nhiệm làm trai trên hết, nên chúng ta ngày nay mới còn có đất nước, để mà vui sướng, đau khổ. Hỡi ơi, có làm lính mới hiểu phận bèo của lính, có là thương phế binh, sau khi được xuât ngũ, mới thấm thía được nỗi buồn của một kẻ tàn tật, mất tất cả, ngoài người mẹ già từ quê xa, đang đợi con trở về. Thê thiết quá cũng như đau đớn tột cùng, kiếp lính chiều tàn là thế. Sự thật là vậy, có khi còn đau đớn trăm chiều. Ai đã tùng thấy chưa, cảnh vợ lính hay người yêu, chỉ một lần vào thăm người thân nơi quân y viện, rồi chẳng bao giờ quay lại, ngoài những giọt lệ cá sấu, vô tình còn vương vãi đó đây. Ai có một lần ngược xuôi trên các nẻo đường thiên lý, tình cờ hội ngộ những chàng trai tàn tật còn rất trẻ, những người mù, què, mặt mày in đầy thương-sẹo bởi đạn bom, đang lần mò ngửa tay chờ bố thí của mọi người. Họ là lính chiến của một thời oanh liệt, là thương phế binh QLVNCH đó, họ đau khổ mang thương tật không phải do bẩm sinh, mà vì đời, vì người gánh chịu:

Theo sử liệu, ta biết Nha Cựu Chiến Binh và Nạn Nhân Chiến Cuộc, trưc thuộc Bộ Quốc Phòng. Đầu tiên Nha này là một Bộ được thành lập vào tháng 8-1952, có một An Dưỡng Đường dành cho Thương Phế Binh. Sau đó, bộ này bị hủy bỏ, tất cả các vấn đề liên quan tới cựu chiến binh, đều giao cho Bộ Y Tế, với một Nha riêng gọi là Nha Tổng Thư Ký, Cưu Chiến Sĩ và Phế Binh đãm trách.

Thời VNCH, qua một Đại Hội Cựu Chiến Sĩ toàn quốc tại Toà Đô Sảnh Sàigòn. Ngày 29-5-1955, Nha Tổng Giám Đốc CCB và NNCC được thành lập, trụ sở ở đường Đoàn Thị Điểm. Sau Tết Mậu Thân 1968, Nha được cải thành Bộ, gồm các Nha Sở Trung Ương và các Ty trực thuộc.

Năm 1969, một biến cố lớn đã xảy ra tai thị xã Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Đó là vụ Y Sĩ Đại Uý Hà Thúc Nhơn, trưởng trại 12 tai, mắt, mũi, họng, thuộc Quân Y Viện Nguyễn Huệ. Vì dám tố cáo Chỉ Huy Trưởng QYV là Thiếu Tá Phùng Quốc Anh, với sĩ quan hành chánh Đặng Mai, toa rập tham nhũng, ăn xén tiền ẩm thực của thương bệnh binh, cũng như mờ ám trong các vụ cứu xét, phân loại trợ cấp, miễn dịch. Đại Uý Nhơn đã cầm đầu các bệnh binh nổi loạn, nên bị Tỉnh trưởng Khánh Hòa lúc đó là Đại Tá Lý Bá Phẩm, nguyên Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43 Biệt Lập, ra lệnh cho ĐPQ bắn trọng thương và đã chết khi chở vào cấp cứu tại Cam Ranh.

Ngày đưa tang người xấu số, cũng là thời điểm Phế Binh Khánh Hòa đứng dậy đòi quyền sống. Taị Sàigòn, Trung Úy mù BĐQ Đỗ văn Lai cùng một số phế binh nặng, đang dưỡng thương tại Trung Tâm Chỉnh Hình đường Bà Huyện Thanh Quan, cũng biểu tình, cắm dùi khắp Đô Thành, đòi Chính Phủ phải cứu xét lại quyền lợi của họ, trước vật giá leo thang đắc đỏ, do sự hiện diện của Mỹ và Đồng Minh, vung đô la xanh đỏ qua cửa sổ như khói thuốc. Phong trào tranh đấu bùng nổ khắp nước, làm cho chính quyền trung ương cũng như tại các tỉnh bối rối, vì không thể dùng bạo lực để chèn ép hay khóa miệng, bởi phế binh cũng là lính, nên ai nỡ xuống tay.

Rồi Tổng Hội Thương Phế Binh ra đời tại Sàigòn, bầu PB Nguyễn Đinh làm Hội Trưởng, PB Nguyễn Bính Thịnh, tức nhà văn An Khê, làm phó và PB Đinh Trung Thu, tổng thư ký. Ngoài ra còn có một Hôi Ái Hữu Thương Phế Binh, do cựu Thiếu Tá Nguyễn Văn Hàng thành lập.

Thời Đệ Nhị Cộng Hòa (1967-1975) bắt đầu năm 1969 trở về sau, quyền lợi của Phế binh, cô nhi quả phụ càng ngay càng được cải tổ, chăm sóc và dễ thở hơn trước. Nạn chèn ép, dìm sổ trợ cấp để làm tiền cũng chấm dứt. Từ năm 1972, chính phủ cho thành lập Ty Cựu Chiến Binh tại các Tỉnh, có quyền hạn rất rộng rãi, ngoại trừ sổ trợ cấp đầu tiên được ký cấp từ Bộ. Cũng từ đó, người cô nhi, quả phụ và thương phế VNCH, được sống an nhàn hơn trước, với các quyền lợi thiết thực, tương xứng, từ trợ cấp, xin việc làm, y tế, cho tới các kỳ thi, tất cả đều ưu tiên cho họ.

Rồi thì hằng loạt Làng Phế binh, lần lượt ra đời tại quận cũng như thị xã. Riêng những phế binh đã có nhà, không muốn vào Làng, được trợ cấp một ngân khoản 60,000 đồng. Tất cả các làng trên, đều bị VC cướp giựt sau ngày 30-4-1975.

Làm người bình thường, sống trong thời loạn, đã phải khốn khổ vì miếng cơm manh áo, huống chi phận lính nghèo, lãnh đồng lương chết đói, vậy mà còn bị trí thức nguyền rủa, là lính đánh thuê cho Mỹ.

"Giọt mưa trên lá, nước mắt mặn mà, thiếu nữ mừng vì tan chiến tranh chồng về..."

"Mẹ lần mò, ra trước ao, nắm áo người xưa, ngỡ trong giấc mơ, tiếc rằng ta, đôi mắt đã lòa vì quá đợi chờ..."

(Phạm Duy).

Nhưng chiến tranh chứa dứt và vẫn còn khốc liệt, nhưng người xưa nay đã thành tàn phế, vô dụng, lê lết đời tàn xuân héo, lần mò trở về làng xưa, với những kẻ thân yêu, mong chút tình thân đùm bọc.

Ai có cảm thông chăng người lính mù trẻ tuổi vì đạn B40, lần mò trên chiếc xe lăn, quanh bến phà, bến xe, miệng hát tay đờn kiếm sống? Có thương không những người lính trận, bán thân bất toại, lê lết khắp các nẻo đường phố thị, để bán vé số, sách báo, đắp đổi qua ngày. Và còn nữa, còn trăm ngàn thảm kịch của tuổi thanh niên thời loạn, chân gỗ tay nạng, mắt mũi vàng khè, khô nám, luôn đau đớn bởi những hậu chứng, sau khi giải phẫu. Nhưng họ vẫn lao động để sinh tồn, đi biển, làm nông, lết lê trên ruộng trên sóng, đội nắng tấm mưa. Kiếp sống phận bèo của người phế binh là thế đó, nên phải chiếm đất cắm dùi, cũng là chuyện bình thường.

Hai mươi năm chinh chiến, dù có gọi bằng một thứ danh từ gì chăng nữa, thì xác của nam nữ thanh niên hai miền đất nước, cũng đã chất cao như núi, máu chảy thành sông. Rốt cục chỉ có cái vỏ độc lập, hòa bình, tự do, thống nhất. Người cả nước đói vẫn đói và đời sống càng bị tù hãm tứ phiá, bởi cổ được mang nhiều thứ gông, cả cộng sản, lẫn tư bản và đảng cầm quyền.

Nhưng thê thiết nhất vẫn là những người phế binh VNCH. Ngày xưa lúc chế độ cũ còn, được nói, được hưởng đủ thứ quyền lợi, thế nhưng họ vẫn sống bèo bọt, cực nghèo. 30-4-1975, VC vào tóm thu tất cả, thêm vào đó là chuyện trả thù. Lính sống thì đi tù, lính chết thì cầy mộ, còn lính què đui tàn phế, thì bị xua đuổi ra khỏi các quân y viện, làng phế binh và ngay cả ngôi nhà của mình.

19-4-1975 tại Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch, Phan Thiết. 30-4-1975 tại Tổng Y Viện Cộng Hòa-Sàigòn. Thảm họa gì đã đến với các thương bệnh binh còn đang điều trị, khi giặc về? Có ai cầm được nước mắt trong cảnh đoạn trường máu lệ, khi từng đoàn thương binh, nối gót đắt dìu ra cổng. Người sáng dắt kẻ mù, kẻ bị thương nhẹ cõng người trọng bệnh. Khắp lối ra vào, máu me vương vãi với nước mắt đoanh tròng của những nạn nhân bị bỏ rơi, không đại bàng, chẳng đồng đội và cũng hết hậu phương. Một số chết vì vết thương quá nặng, số khác sống trong cảnh tàn phế vĩnh viễn, vì vết thương không được tiếp tục điều trị. Đời thê thảm quá, cũng may lúc đó quanh họ, còn có những cô gái bán phấn buôn hương ở Ngã ba Chú Iá, Gò Vấp, những người xích lô ba gác, kẻ cho tiền, người giúp công, đưa hết những bệnh nhân xa xứ, tới bến xe về quê sống tiếp kiếp lính bèo.

Cuộc đổi đời nay đã xa lắc nhưng mỗi lần nhớ cứ tưởng mới hôm qua hôm nay. Ba mươi lăm năm rồi ta còn sống được, để nói chuyện văn chương chữ nghĩa trên đất người, đã là điều đại phúc. Trong lúc đó nơi quê nhà ngàn trùng xa cách, những người phế binh năm nào, không biết nay ai còn ai mất. Nhưng chắc chắn một điều, dù họ có sống hay đã chết, thì hận nhục, thương đau cũng đâu có khác gì bóng ma trơi, những mảng đời nghèo hèn tăm tối. Đâu có ai muốn nhắc tới những thân phận hẩm hiu trong vòng đời tục lụy, kể cả những cấp chỉ huy cũ, hiện đổi đời giàu sang, mồm to miệng thét ở hải ngoại.

- Xin hãy thương lấy họ, hãy cứu vớt họ đang trôi nổi trong ngục tù nghiệt ngã.

- Phế binh cũng là một phần của tập thể cựu quân nhân hải ngoại.

- Hãy rớt một chút ân thừa cho những thây người còn sống sót trong bể hận trầm luân.

- Hãy cho họ một chút tình thương trong cơn hấp hối.

- Hãy dành cho họ một chút không gian nho nhỏ, trong căn nhà VN to lớn, đã được các cộng đồng tị nạn hoàn thành trên khắp nẻo đường viễn xứ, để họ an tâm chờ đợi luân hồi và một vòng hoa tặng người chiến sĩ ca khúc khải hoàn, mà chắc chắn phải có trong thời gian gần.

Ngày xưa người chinh phụ, giữ sạch tâm hồn và băng trinh tuổi ngọc, để đợi chồng ngoài quan tái, hy vọng cuộc chiến mau tàn, để phu phụ trùng phùng, kết lại mối duyên xưa:

"Xin vì chàng xếp bào ci giáp

Xin vì chàng giũ lp phong sương

Vì chàng tay chuc chén vàng

Vì chàng đim phn, đeo hương não nùng

Liên m, đi m, đòi phen

Cùng chàng li kết, mi duyên đến già..."

(Chinh Phụ Ngâm)

Nhưng người chinh phụ VNCH lại không có cái diễm phúc đó, vì khi quê hương vừa ngưng tiếng súng, lập tức từ quan quân cho tới sĩ thứ, những người bại trận, lớp lớp vào tù. Lính chết đã rục tử thi vẫn bị dầy mồ, lính bị thương tàn phế bị xua đuổi ra khỏi cuộc sống. Thử hỏi trên thế gian này, có kiếp người nào, đáng thương hơn người lính VNCH?

"Du binh la nước non như cũ,

K hành nhân qua đó chnh thương"

(Chinh Phụ Ngâm)

Cuộc đời thanh niên thời loạn ly, rốt cục chỉ còn lại nỗi buồn thiên cổ, xin hãy nâng ly rượu sầu lên môi mà nhớ. Nghiêng mình, cúi đầu cảm tạ những vị ân nhân, đã và đang hết lòng cưu mang, giúp đỡ tận tình "Thương Phế Binh, gia đình kể cả cô nhị quả phụ VNCH", hiện đang sống kiếp trầm luân rách đói, trong địa ngục VN.

Xóm Cồn Ha Uy Di

Tháng 11-2010

Friday, November 26, 2010

Chính phủ một chiều

Theo Dân Làm Báo

Vũ Nhật Khuê (danlambao) – Theo dõi các buổi họp quốc hội nhất là các cuộc chất vấn và trả lời của Thủ tướng và các thành viên của Chính phủ chúng ta thấy gần như họ muốn cái gì là được cái nấy. Đem ra quốc hội cũng là chuyện đã rồi. Nói vòng nói vo gì cũng về cái đích: ”quyết tâm thực hiện đúng chủ trương chính sách của đảng đề ra”. Còn chuyện trả lời chất vấn của các đại biểu quốc hội à? Như là tuồng hát chèo, hát cải lương cho có vẻ mang màu sắc dân chủ vậy thôi. Bộ chính trị bảo như vậy thì quốc hội có cản cũng không được.

Đầu tiên là vụ mở rộng Thủ Đô. Mặc cho các đại biểu quốc hội, mặc cho hội kiến trúc phản đối nhất là dân Hà Thành không chịu chung số phận ”nhà quê” gào thét. Nhưng Bộ Chính Trị đã duyệt như vậy là phải làm. Ngày nay cái vẻ đẹp 36 phố phường nó tèm lem ra và những hệ lụy của thủ đô sau khi được ”nông thôn hóa” đã làm bẽ mặt nhiều người. Khi quỹ đất ”đô thị đặc biệt” hết thì phải mở rộng ra mới có phần chia cho anh 3, anh 7, chị 8. Dẹp qua bên các vấn đề an sinh xã hội. Cứ dàn hàng ngang mà tiến thì thế nào cũng huề cả làng.

Đến vụ con tàu rách nát Vinashin. Nó phá sản thì dẹp tiệm cho rồi. Nhưng theo ông Nguyễn Sinh Hùng thì ”Bộ chính Trị ủng hộ kinh tế biển” nên nhất đinh phải thành lập: ”Ban chỉ đạo tái cơ cấu theo đúng tinh thần của Bộ Chính Trị”. Ơ hay cái Bộ Chính Trị này tài tình ghê! Biển đảo có còn đâu mà ủng hộ hay tái cơ cấu kinh tế biển? Không thấy cáo đường lưỡi bò của Trung Quốc sao mà ra khơi? Tàu nào ra khơi chưa kịp đánh cá đã bị bắt đòi tiền chuộc rồi không thấy sao mà kinh tế biển, kinh tế đảo?

Nổi bậc nhất là đường sắt cao tốc. Mặc cho quốc hội phủ quyết, chính phủ vẫn cứ mài đi mài lại cái dự án viễn vông này. Hễ chính phủ muốn là đòi cho bằng được. Thua keo này bày keo khác. Không ôm trọn dự án lớn thì chia nhỏ nó ra cho dễ qua mắt Quốc hội. Bộ trưởng Hồ Nghĩa Dũng thì khăng khăng là: ”Đúng quy định của pháp luật, đúng chủ trương của đảng”. Vẫn cứ vay tiền của Nhật để nghiên cứu đường sắt cao tốc. Đi tham dự hội nghị G8 ở Canada thì các thành viên của chính phủ luôn tìm hiểu ghi chép về tàu cao tốc ở đây để về nhà bắt buộc Quốc hội và nhân dân phải thực hiện dự án xa với này của Chính Phủ đề ra.

Chính phủ ép quốc hội phải đồng thuận với mình rõ nhất là vụ Bô Xít. Khi đâu vào đó rồi mới đưa ra Quốc hội duyệt. Chưa họp Quốc hội đã nghe Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng nói là sẽ đồng thuận. Người Trung Quốc hiện diện đầy trên Tây Nguyên đang làm đảo lộn mọi sinh họat của Tây Nguyên mà Quốc hội chưa hay biết gì. Các đại biểu Quốc hội là thành viên của chính phủ thì cứ khăng khăng đòi làm cho bằng được. Mấy ông chủ tịch tỉnh của Lâm Đồng hay Daknông cũng hòa vào dàn hợp xướng của chính phủ là chuyện đương nhiên. Họ không là đại biểu của nhân dân địa phương họ mà là thành viên của chính phủ.

Vụ cho thuê rừng đầu nguồn ở các tỉnh là chính phủ mượn tay cấp dưới để dễ bề chối tội cho đó là chuyện của địa phương. Địa phương có ký hợp đồng với các đối tác cũng phải xin ý kiến chỉ đạo của các ban đảng, của văn phòng chính phủ chứ đâu có tự tung tự túc ký được. Vậy nhưng chính phủ trả lời chất vấn rất ”trơn tru” chuyện cho thuê rừng. Bây giờ thì cò hủy hợp đồng đền tiền cũng không được vì quá muộn rồi.

Các dự án luật do các bộ của chính phủ chủ trì đem ra Quốc hội bao giờ cũng mang tính hình thức là thông qua. Để rồi không bao lâu sau đó là có sự sửa đổi bổ sung. Nhiều dự án luật sửa tới sửa lui đến 4-5 lần. Các nghị định, thông tư của chính phủ thì được tôn trọng hơn là hiến pháp và các bộ luật. Dù các thông tư, chỉ thị có trái với luật thì nó vẫn được coi trọng và áp dụng. Ví dụ rõ nhất là công an muốn kết hôn với ai thì cũng phải do ngành này quy định riêng mặc cho Hiến pháp và Luật về hôn nhân gia đình nói là ”hôn nhân tự nguyện” hay ”tự do hôn nhân”.

Chính phủ tự cầm lái tự thổi còi mặc cho nhân dân khắp nơi góp ý này nọ. Góp ý chỉ tốn thời gian chứ ý dân sao bằng ý của đảng. Chính phủ do bộ chính trị cơ cấu trước các kỳ đại hội đảng và chỉ làm nhiệm vụ của bộ chính trị mà thôi. Ngay cả quốc hội cũng là của bộ chính trị lập ra để cho có vẻ có nhiều thành phần tham gia nhưng luôn là trên 90% các đại biểu là đảng viên. Chú ý các ”dằn co trên diễn đàn quốc hội” lúc cao điểm nhất lại nghe nhắc đến ”đồng chí” hay cụm từ nghe quen quen thời cải cách ruộng đất và đánh tư sản là ”thực hiện nghiêm túc phê và tự phê”.

Chính phủ là cơ quan hành pháp nhưng các thành viên của chính phủ cũng có mặt trong quốc hội là cơ quan lập pháp. Nên các dự án luật của họ luôn tính toán sao có lợi nhất cho họ khi thi hành. Luật về công an nhân dân nhưng do Bộ Công An chủ trì thực hiện dự án thì đem ra Quốc hội họ cũng là đại biểu nên cố gắng bảo vệ tới cùng những quyền lợi của họ. Nên ngày nay ngành công an có làm mưa làm gió, có giết người, tra tấn dã man, có làm lệch vụ án này nọ thì Quốc hội cũng im lặng. Ngay cả tư pháp là Tòa án và Viện kiểm sát cũng thua công an. Nhất là trong các vụ án hình sự thì công an điều tra gần như nắm tòan quyền quyết định vụ án từ khâu cấp giấy chứng nhận cho luật sư tham gia vụ án cho đến việc ép cung, nhục hình. Các kết luận điều tra bao giờ cũng đầy sai sót nhưng luôn được lấp liếm cho qua.

Chính phủ – Quốc Hội gần như là hai cơ quan độc lập nhưng như cách nói dân dã: ”hai nếp cũng thành một xôi” đứng đàng sau luôn luôn là bộ chính trị sắp đã sắp sẵn mọi thứ. Nên gần đây luôn nghe thủ tướng, các thành viên của chính phủ, ngay cả chủ tịch quốc hội hay nhắc đến: ”làm đúng chủ trương của đảng” rồi sau đó mới nghe họ nhắc đến ” đúng pháp luật”. Chủ trương và đường lối của đảng thì quan trọng hơn pháp luật.

Theo dõi chất vấn của đại biểu Nguyễn Minh Thuyết với thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về wesbite của chính phủ đăng bài chụp mũ đại biểu. Cách trả lới của thủ tướng cũng là cách nói vo, chối tội đỗ lỗi cho cấp dưới là bộ trưởng văn phòng chính phủ Nguyễn Xuân Phúc. Thủ tướng quên rằng quốc hội cũng là của đảng. Trước đây bộ trưởng giáo dục Nguyễn Minh Hiển trả lời chất vấn các đại biểu y như là bố mẹ mắng chửi con cái vậy. Sau đó thì ông này mất chức bộ trưởng và xin đi du học Hoa Kỳ.

Vì là con đẻ của Bộ Chính trị nên quốc hội cũng như chính phủ chẳng có thực quyền hạn đúng nghĩa của mình. Nên các quy phạm pháp luật không bằng văn bản chỉ đạo của Bộ Chính Trị . Thực tế thì LUẬT PHÁP không bằng LỆNH MIỆNG.

Vũ Nhật Khuê (danlambao)

Danlambao.com


Thursday, November 25, 2010

Mỹ vẫn mạnh hơn Bắc Kinh

Theo Tuanvietnam.net

Điều gì đang xảy ra với chính sách ngoại giao “quyền lực mềm” và “láng giềng tốt” của Trung Quốc, mà chúng ta được nghe đến rất nhiều trong những năm gần đây?

Cái được cho là "quyền lực mềm" của Trung Quốc, thường được phóng đại quá, đã biến mất trong nháy mắt. Những tháng vừa qua, Trung Quốc đã thẳng thừng từ chối mời Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates sang thăm Bắc Kinh; gọi biển Đông là "lợi ích cốt lõi" cứ như thể vùng biển này lãnh hải của Trung Quốc; đe dọa trả đũa nếu Mỹ xúc tiến bán máy bay chiến đấu F-16 cho Đài Loan; và từ chối lên án Triều Tiên trong vụ chìm tàu chiến Cheonan của Hàn Quốc.

Tại sao Trung Quốc thay đổi như vậy? Có hai lý do. Một là cảm giác về sự yếu đi của Mỹ, mà Tổng thống Barack Obama dường như đang cố chỉnh đốn. Thứ hai là mọi chuyện không suôn sẻ ở bên trong Trung Quốc.

Về lý do thứ nhất: Đảng Cộng sản Trung Quốc hiểu rõ và tôn trọng quyền lực. Đương nhiên quan hệ Mỹ - Trung vẫn ổn định, thậm chí đôi khi còn mang tính xây dựng, dù cựu Tổng thống George Bush giữ cân bằng quyền lực của Trung Quốc bằng việc nâng cấp quan hệ với Nhật Bản, bán vũ khí cho Đài Loan và phát triển quan hệ đối tác chiến lược với Ấn Độ.

Tổng thống Obama đã tiếp cận với Trung Quốc theo cách khác. Ông tránh kiểu chính trị vũ lực và tránh làm Trung Quốc rối tung lên. Ví dụ, quan hệ Mỹ với Ấn Độ đã không được coi là một phần quan trọng trong cán cân quyền lực châu Á, chính quyền Obama cũng hoãn bán vũ khí cho Đài Loan và hoãn cuộc gặp với Đạt Lai Lạt Ma, coi đây là những động thái nhằm củng cố quan hệ đối tác với Bắc Kinh. Ngay cả quan hệ Mỹ - Nhật cũng bị xáo trộn, dù không phải do lỗi của ông Obama nhưng chính vì thế mà Nhật Bản cũng không thể giúp Mỹ duy trì thế cân bằng quyền lực trong khu vực nữa.

Tuy nhiên, Bắc Kinh muốn nhiều hơn thế. Giờ họ đang tấn công vào nhược điểm của đối thủ, ngang nhiên tuyên bố Biển Đông là một cái hồ của Trung Quốc.


Một nguyên nhân khác dẫn tới sự hiếu chiến và ngạo mạn của Trung Quốc là vô số các vấn đề trong nước của họ. Với một lớp kế cận chính trị vào năm 2012, trong đó các cán bộ đảng viên không sống trong thời cách mạng cộng sản sẽ lên nắm vai trò lãnh đạo, Bộ Chính trị Trung Quốc cũng có nhiều lý do để lo lắng. Rối loạn trong dân chúng cũng ngày càng mang sắc thái chính trị, có tổ chức và tinh vi hơn, khi mà nhiều công dân nhập cư, làm việc trong nhiều vị trí khác nhau, chứng kiến những bất công và mất cân bằng đầy rẫy.

Có thể Quân giải phóng nhân dân Trung Hoa và những người theo chủ nghĩa dân tộc chống Mỹ ở Trung Quốc sẽ thấy đây là một cơ hội để gây sức ép lên hệ thống chính trị, đòi thực thi các biện pháp quyết liệt hơn. Điều mà người ta nghe thấy hiện nay từ Trung Quốc là: "Chúng ta đang hùng mạnh và không cho phép họ làm điều đó nữa". Từ "điều đó" ở đây ám chỉ cả việc Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan và các hoạt động quân sự của Mỹ ở ngoại vi Trung Quốc.

Chính quyền của Tổng thống Obama dường như đã nghe thấy thông điệp này. Họ đã bán cho Đài Loan thứ vũ khí mà hòn đảo này rất mong muốn. Bộ trưởng Gates đã rất rõ ràng và thẳng thắn khi nói về các lợi ích của Mỹ và đồng minh ở Biển Đông và chính quyền Mỹ cũng xúc tiến cuộc tập trận chung với Hàn Quốc trên Hoàng Hải bất chấp sự phản đối của Trung Quốc.

Washington vẫn có những quân cờ "nặng ký" để tung ra. Trung Quốc đang mạnh hơn, nhưng họ vẫn không thể sánh được với sức mạnh của Mỹ và các đồng minh ở châu Á. Không nước nào trong bốn nước đồng minh của Mỹ trong khu vực này muốn một Trung Quốc bá chủ. Vì vậy, một trong những câu chuyện không được nói ra là cuộc đua hiện đại hóa quân sự trong khu vực. Hầu như tất cả các đồng minh của Mỹ ở đây đều đang xúc tiến mua máy bay chiến thuật tân tiến (F-35), các thiết bị theo dõi trên biển, và tàu ngầm chạy bằng diesel, để đối phó với một Trung Quốc đang nổi lên.

Vẫn còn một cơ hội để Trung Quốc lựa chọn: hành xử như một nước lớn có trách nhiệm, hoặc phải đối mặt với một sự kháng cự lớn./.

  • Quốc Thái dịch theo FP

Wednesday, November 24, 2010

Vụ Cù Huy Hà Vũ: Hà Nội vi phạm điều 19 Công ước Quốc tế về quyền Dân sự và Chính trị

Theo RFI

Ông Cù Huy Hà Vũ bị bắt từ đêm 04/11/ 2010 tại Sài Gòn
Ông Cù Huy Hà Vũ bị bắt từ đêm 04/11/ 2010 tại Sài Gòn
Tú Anh

Các Tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế chỉ trích chính quyền Việt Nam vi phạm điều Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị. RFI đặt câu hỏi với ông Vũ Quốc Dụng, Tổng thư ký hiệp Hội Quốc Tế Nhân quyền.

Trong một lá đơn đề ngày 21/11/2010 gởi bộ trưởng Lê Hồng Anh, luật sư Nguyễn Thị Dương Hà, vợ Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ tố cáo "Thủ trưởng cơ quan an ninh điều tra bộ Công An" vi phạm luật hình sự. Trong khi đó, các Tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế chỉ trích chính quyền Việt Nam vi phạm điều Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị.

Từ Frankfurt, trụ sở của Hiệp Hội Quốc Tế Nhân Quyền, Tổng thư ký Vũ Quốc Dụng phân tích thêm qua bài phỏng vấn sau đây.

Trước hết, ông nhận định về việc bắt giam và cáo buộc luật gia Hà Vũ những tội danh thay đổi từ « quan hệ với gái mãi dâm trở thành chống nhà nước và bôi nhọ lãnh đạo ».

Ông Vũ Quốc Dụng-Frankfurt
22/11/2010