Translate

Friday, December 26, 2008

Bệnh lạ

Mời đọc truyện ngắn "Bệnh lạ" của Nguyễn Thanh Ty. Ông hiện đang sống tại Massachusett

Bệnh Lạ
Nguyễn Thanh Ty

Mấy hôm nay bệnh ông Hai bỗng nhiên trở nặng. Bà Hai lo lắm. Bà lẳng lặng ngó chừng và theo dõi ông từng bước đi. Ông cứ thơ thẩn quanh nhà, mắt thỉnh thoảng nhìn lên trời rồi cúi xuống đất như tìm kiếm vật gì, rồi bỗng cười khan.

Tiếng cười ông nghe lạ lắm. Nó vừa bi phẫn vừa chua chát. Không ra tiếng cười reo vui.

…Có lúc chỉ nghe “hực” một tiếng ngắn trong cổ họng. Có lúc lại nghe cả tràng dài ha hả. Mấy năm nay ông thường có triệu chứng như thế. Nhưng chỉ đôi khi.

Tối tối, cơm nước xong, Ông thường ngồi đọc báo trên Net. Bà nằm coi Tivi, trên chiếc sô pha bên cạnh. Chốc chốc bà lại nghe tiếng ông xì một cái:

- Chuyện!

Rồi ông cười hực lên nghe như tiếng “hứ”. Bà quay sang:

- Chuyện gì vui vậy ông?

- Chuyện mấy thằng “nỡm” viết báo bên nhà!

- Họ viết cái gì vậy?

- Thì cũng ba cái chuyện “muôn năm trường trị, thống nhất giang hồ” vậy mà!

- Nhưng mà chuyện gì mới được chớ? Ông nói chung chung rồi cười một mình coi bộ thấm ý?

- Thì cái tin nào, “đầu vào” cũng có khó khăn nhất định, “đầu ra” thì phải thắng lợi vẻ vang! Vượt chỉ tiêu cùng thời kỳ năm ngoái!

- Cũng tùy theo báo chớ. Không lẽ báo nào cũng rập khuôn?

- Hơn sáu trăm tờ báo từ Nam chí Bắc, tờ nào cũng một lò mà ra thì không rập khuôn là gì?

- Tui thấy trừ mấy tờ báo Đảng, báo Đoàn, báo Công An… chuyên phổ biến chỉ thị thông cáo, và tuyên truyền ba hoa khoác lác ra, mấy tờ khác như tờ Tuổi Trẻ, tờ Thanh Niên đọc cũng được lắm?

- Ừ thì lâu lâu cũng có vài bài nhờ viết “lách” xì ra một hai cái tin, như chuyện thuốc tây tăng giá cắt cổ dân nghèo, chuyện tàu Trung Quốc bắn chết ngư dân Việt nam. Nhưng vừa mới xì ra bữa trước, bữa sau bị Đảng ta đấm vào mõm, gãy răng, miệng mỏ sưng vêu lên, tịt ngòi, còn chuẩn bị ra tòa lãnh án tù nữa kia!

- Ối trời! Vậy thì còn gì là báo với chí! Rồi dân chúng sống sao cho nổi?

- Vậy mới có chuyện để cười!

Ấy, ông Hai có cái cười như thế, lâu dần thành bệnh di căn, lưu cửu, mỗi ngày mỗi nặng.

Hồi trước, ông cũng đã có một cái bệnh khác, lạ không kém. Cái bệnh này ông bị lâu lắm, từ cái hồi năm bảy mươi lăm lận.

Sau khi qua Mỹ được mấy tháng, tự nhiên dứt bệnh, chẳng cần thuốc thang gì mà vẫn khỏi.

Tháng tư năm bảy lăm, bộ đội Cụ Hồ với dép lốp, nón tai bèo, ruột tượng gạo, ào vô chiếm Miền Nam, mang theo hai chứng bệnh kỳ lạ.

Bệnh thứ nhất là bệnh ghẻ hòm của Tàu phù, còn gọi là ghẻ “bộ đội”. Mụt nào cũng to như hột bắp nếp, mưng mủ xanh lè, mọc từ kẽ tay, kẽ chân cho tới kẽ háng. Không thuốc nào bôi cho khỏi. Trẻ con cho chí người lớn, mình mẩy nhoe nhoét một màu phẩm xanh lá cây. Đến Viện Da Liễu thì được phát cho Xuyên Tâm Liên. Cứ về uống ngày một bụm. Sáng hôm sau ỉa phân xanh toàn lá cây mà ghẻ cứ ghẻ. Chẳng nhằm nhò một ly ông cụ. Tay chân sưng phù lên, đơ ra, không cầm nắm, làm ăn gì được.

Bệnh thứ hai thì phát sinh ở dưới hạ bộ. Không biết phải gọi tên gì. Ngay trên hai hòn “ngọc hành” cứ mọc mụt, to bằng ngón tay, mọng nước, căng bóng. Vài hôm sau mụt này vỡ nước thì mấy mụt khác mọc ra. Cứ như thế, nó dai dẳng.

Mãi về sau, người ta đành phải gọi nó là “ghẻ phỏng” để có cái tên khi đi khai bệnh.

Ghẻ phỏng thì từ xưa vẫn có. Nhưng nó chỉ mọc ở trên lưng, trước ngực hay ở tay chân là cùng. Cứ xức “bô mát” vài hôm là khỏi. Còn bây giờ cái “ghẻ phỏng” tai ác này cứ nhè ngay trên hai viên ngọc quí mà mọc triền miên như trăm hoa đua nở.

Các Bác sĩ Chuyên Tu ngoài Bắc vào, cũng chịu chết. Chưa hề thấy cái chứng này bao giờ. Không biết do con vi trùng gì mà nó lây lan một cách mau chóng lạ kỳ. Mới đầu hôm, sớm mai, chưa đầy mấy tháng mà chỗ nào cũng có người bị bệnh này. Được cái, nó không hành hạ đau đớn cấp tính. Nó cứ xót xót, ngứa ngứa, lầy nhầy dưới háng rất khó chịu. Làm cho mấy ông phiền phức trong vấn đề đi đứng. Hai chân cứ chàng hảng như người bị bệnh hoa liễu lậu mủ. Nhất là mấy bà vợ, buồn lòng không ít, bởi khi mắc bệnh này mấy ông chồng không làm ăn gì được. Có bà quá thất vọng, bỏ luôn chồng cũ để đi lấy “bộ đội Cụ Hồ anh hùng” cho thỏa chí “tang bồng”.

Nói của đáng tội, sau cái ngày tháng tư bảy lăm, với chính sách “cào bằng” của Đảng ta để hai miền Nam Bắc được giàu có và mạt rệp như nhau, không còn giai cấp địa chủ và bần cố nông, bằng liên tiếp mấy cú tuyệt chiêu chuyên chính như đổi tiền và đánh tư sản mại bản. Một sáng bừng mắt dậy, miền Nam bỗng nhiên trở thành sa mạc chết. Hàng trăm ngàn người vô trại tù. Thực phẩm, lúa gạo biến mất sạch. Ngăn sông cấm chợ. Công An hùng hổ đi bắt nóng, bắt nguội, bắt khẩn cấp khắp nơi. Một bầu không khí chết chóc khủng bố bao trùm. Ai ai cũng ngơ ngác lo sợ phập phồng. Mấy ông vừa nhấp nhổm lo sợ không biết bị “tó” đi cải tạo hồi nào, vừa lo chạy đủ gạo, đủ sắn lát, bo bo, cho con ăn đã phờ người ra rồi, ông nào còn đủ can đảm và nhiệt tình nghĩ đến ba cái chuyện xa xỉ đó.

Lại còn có thêm cái bệnh lạ khác xảy ra nữa.

Đó là bệnh “dập dế”.

Bệnh này chỉ xảy ra và lây lan trên chiếc tàu Thương Tín thôi. Sau khi đám người trên tàu chạy tới đảo Guam, được chính quyền và dân chúng trên đảo chào đón hoan hô, ngày ngày cơm dâng, nước rót, chờ ngày nhập cư qua Mỹ. Bỗng dưng, không biết ăn nhầm cái giống gì, cả đám nhao nhao đòi về lại “quê hương mến yêu có Bác Hồ vĩ đại”. Rồi làm reo, rồi biểu tình. Đốt cả trại. Rối xồm xồm. Hung hăng con bọ xít. Chính quyền ở đảo lại phải cung cấp dầu mỡ, lương thực và đưa thợ máy xuống tàu sửa chữa máy móc cho hoàn hảo để đám người “yêu nước” về với Bác.

Tàu về đến bến Cầu Đá Nha Trang, mấy ông Tá, ông Úy Hải Quân được Ủy Ban Quân quản phát quần áo mới, bèn hớn hở quăng hết bộ đồ cũ của Mỹ Ngụy, để đoạn tuyệt quá khứ. Vừa lên khỏi bến tàu, ai nấy đều “hồ hởi phấn khởi” hoa tay múa chân, mồm nhe răng ra cười toe toét, tưởng đâu được Nhà Nước vẫy cờ đỏ tung hê chào đón, ai dè, từng đoàn, từng đoàn, bị Đảng ta cho lên xe bít bùng chở thẳng ra A.30 ở Phú Yên một mớ để tập ca bài “Phú Yên ơi! như Phù Đổng thiên vương…” của ông nhạc sĩ răng vàng Mác Điên (Tuyên), một mớ ra tận ngoài Bắc để chờ ngày thăm lăng Bác.

Mỗi nơi, anh nào cũng được Nhà Nước “mến tặng” từ năm đến mười lăm cuốn lịch còn mới nguyên, để ngày ngày sau khi đi lao động vinh quang mười hai tiếng đồng hồ, về ngồi bóc lịch cho đỡ buồn, khỏi phải gãi háng như ông “Già gân” Trần văn Hương thuở nọ.

Ông Hai có người bạn Thiếu Tá Hải Quân, cũng trên chuyến tàu ấy. Hồi ở chung trại A.30, một hôm tình cờ tắm cùng một bến nước, thấy hai cái hòn “ngọc hành” của ông bạn vàng teo mất, chỉ còn một túm da, hỏi ra mới biết đầu đuôi câu chuyện.

Số là, lúc còn ở Guam, ăn no rửng mỡ, hai cái dịch hoàn cứ phồng to lên, bóng lộn. Mỗi lần cơm no là muốn bò cưỡi. Ngặt cái, trên tàu làm gì có bò. Cho nên “nục” quá, ai cũng muốn về quê kiếm bò lạc. Hí hửng tưởng bở rằng, nước nhà đã độc lập, sẽ “thung thướng” cái sự đời.

Nào dè…

Khi đưa vô các trại tù có cái tên hoa mỹ là “Cải Tạo”, anh nào cũng được cho uống một liều thuốc đặc chế từ Trung Quốc, có tên là “ thi não đơn”, để tẩy rửa sạch mùi đế quốc. Sau khi uống xong, hai hòn “toòng teng” bỗng dưng teo dần và biến mất, kèm theo nỗi đau đớn dày vò, đau thốn tim can, đau thấu tận trời xanh, như có trùng độc đang đục lên óc. Đã bảo là “thi não đơn” mà! Hai viên “dế” có cảm tưởng đau y như bị kẹp dập. Mỗi lần bị thuốc hành, anh nào cũng trợn trắng mắt, tay đấm bình bịch vào ngực, rên lên như bị trúng phong:

- Mày ngu thì cho mày chết!

Không ai hiểu cái câu ấy ám chỉ cái gì và ai ngu.

Anh em trong trại cứ gọi yêu một cách âu yếm là mấy anh chàng “dập dế”.

Ông Hai mỗi lần buồn buồn, cứ đùa dai với ông bạn vàng Hải Quân Thiếu Tá:

- Ê “dập dế”! Lại đây làm một bi thuốc lào rồi nói chuyện đời chơi!

Ông này bị bỡn mãi, đâm cáu văng tục:

- Lào với liếc! Đời cái con c… Ông đấm bòi vào! Mày bị phỏng dái, tao bị dập dái cũng như nhau! Cả một lũ đầu bò cả! Ai cười ai?

May thay, mấy năm sau, cái bệnh “ghẻ phỏng” trong Nam bỗng dưng biến mất một cách lặng lẽ và kỳ lạ.

Người ta xì xào rỉ tai nhau là nhờ có cái bà nhà văn nào đó ở ngoài Bắc lật đật vô Nam sau cái ngày “thống nhất” để được kịp nghe tận tai, thấy tận mắt cái nghèo đói, cái nô lệ của đế quốc Mỹ tròng lên đầu, lên cổ nhân dân Miền Nam ruột thịt mấy chục năm nay, gọi là “đi thực tế”, để có tư liệu viết văn cho sống động hơn, sát sườn hơn… Bà sợ chậm chân vài tháng thì dân miền Nam đã được Đảng ta “giải phóng” sẽ trở nên giàu có và tự do như ngoài Bắc thì mất đi cơ hội bằng vàng hiếm có, nghìn năm một thuở.

Không ngờ, sau mấy ngày đi dạo phố Sài Gòn, bà chứng kiến “cảnh sống cực khổ đói rách và nô lệ” của dân chúng Miền Nam một cách “rất không lô gíc” như bà đã được học tập. Ai nấy đều “phồn vinh giả tạo” hết. Nào nhà cửa, phố lầu cao ngất, chợ búa sầm uất bán buôn, nào quần là, áo lượt, nào ăn nhậu tưng bừng, ngựa xe đi lại như nước, phát chóng mặt. Và nhất là thấy sách vở của Mỹ Ngụy bày bán ký lô lềnh khênh đủ loại, từ Tư Bản luận dâm ô cho tới Mác Xít chủ nghĩa đồi trụy, thứ nào cũng có, dọc theo hai bên đường, thay vì đem đốt bỏ theo lệnh Nhà Nước. Bà cầm lên đọc thử. Hết cuốn này sang cuốn khác. Bà đọc mê man đến nỗi, ba ngày quên ăn, quên uống và quên cả đi tè. Đến khi mót quá, bà chạy vô cái nhà vệ sinh cạnh đó hối hả làm cái việc bất đắc dĩ. Ai dè, nhà vệ sinh lại mất vệ sinh, bà bị lây cái bệnh “ghẻ phỏng” của cánh đàn ông Miền Nam.

Con vi rút “G-P” (phiên âm đọc là Gờ Phờ, do mấy nhà Bác Học ở Hà Nội nghiên cứu hai chữ “ghẻ phỏng” mà đặt thành tên. Có thằng phản động cứ đọc là Giải Phóng) theo bà ra Bắc. Và phút chốc lây lan ra cả Miền Bắc một cách mau chóng. Nhà Nước hốt hoảng với cái chứng bệnh ngược đường này, không biết cách trị liệu làm sao để chận đứng, bèn dùng biện pháp khoanh vùng, cô lập bà nhà văn này lại để theo dõi. (Nói theo ngôn ngữ mới là “cách ly”) Nhưng con vi rút quái ác này đã hoành hành dữ dội lắm rồi. Nó không những lây lan từ chốn dân nghèo cùng đinh, (gọi đúng chữ là giai cấp bần cố nông) ăn dơ ở bẩn, mà luồn sâu vô cả giai cấp nhà giầu, trí thức khoa bảng, luôn cả những đảng viên nòng cốt cao cấp của ta có cả áo giáp che chắn nữa.

Không có thuốc chữa, Nhà Nước ta chỉ còn biện pháp duy nhất đối với đảng viên và mấy ông trí thức là cô lập cả bọn họ trong mấy cái trại đặc biệt. Dân chúng thì được chữa trị chung bằng tâm lý theo phương pháp “tự kỷ ám thị” của “Mao Xếnh Xáng vĩ đại kính mến” là cứ tụng kinh “Hồng Thư” của Bác Mao hàng ngày, mọi bệnh sẽ khỏi. Tất cả báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình ta được lệnh đăng tải và phát thanh, phát hình liên tục mỗi ngày ba buổi cho dân chúng “học tập và làm theo báo đài” rằng bệnh “ghẻ phỏng” là do bọn phản động hải ngoại và những thế lực thù địch nước ngoài rải chất độc có vi rút “Gờ Phờ” không có gì nguy hiểm, chỉ tác hại ngoài da, ở “một bộ phận” nhất định. Nhân dân cứ tuyệt đối tin tưởng và thấm nhuần “chủ nghĩa vô địch Các Mác và vận dụng tư tưởng siêu việt của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính mến” tụng niệm hàng ngày theo báo đài là bệnh nhất định từng bước sẽ hết.

Nhưng gần ba chục năm qua, phương pháp chữa bệnh theo kiểu này coi bộ không khá. Mấy cái loa thiếc treo khắp xóm trong nước đã rè và móp méo, sứt càng gãy cọng, báo Đảng đem bán ký lô hàng tấn tấn cho mấy bà bán hàng trong chợ gói đồ, đài truyền hình xuống cấp, thay đổi tần số mấy lần vẫn không hiệu quả mấy. Dịch bệnh có mòi ngày thêm xấu đi. (Báo Hồng Kông gọi cái bệnh dịch đó là “Mộ Dung Cô Tô tâm phúc thống” )

Còn cái bà nhà văn nói trên, mới bị “cách ly” đâu chừng sáu tháng thì bà vợ ông Tổng Thống Pháp Mít tơ Răng rỗi việc, làm một chuyến du lịch sang Việt Nam để tận mắt nhìn thấy con rồng Việt Nam ngày ngày từ trên trời bay lên, lộn xuống cái vịnh nước có tên Vịnh Hạ Long cho mãn nhãn như tin các Văn phòng VNTourist bao trọn gói quảng cáo trên Internet.

Ai dè đến nơi, rồng đâu không thấy, chỉ thấy cái lồng nhốt con khỉ già. Lại gần, hóa ra không phải khỉ mà là bà nhà văn nọ. Quá thất vọng, bà Mít tơ Răng bỏ về Pháp và “mách bu” với ông chồng.

Vừa bị lừa, vừa xót của, Ông Tổng thống Pháp yêu cầu thả ngay bà nhà văn ra nếu không thì không thèm chơi và tặng Ơ Rô nữa.

Nhà Nước ta chỉ cần Ơ Rô thôi, chớ chơi thì đâu cần chi tới mấy anh thực dân Pháp. Anh Tây Cà Lồ này là một trong hai đế quốc đầu sỏ trên thế giới, chuyên môn đi ăn cướp nước người khác, đã bị ta đánh cho lổ mũi ăn trầu, ôm đầu máu cút khỏi Việt Nam, vĩnh viễn không dám quay đầu trở lại. Ta chỉ cần chơi với Ông Cu Ba vĩ đại, Ông Bắc Hàn vĩ đại và Ông Miến Điện vĩ đại là dư ăn rồi. Đủ sức tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Chủ Nghĩa Xã Hụi rồi. Nhưng kẹt cái, mấy triệu Ơ Rô, của không vốn tự trên trời rơi xuống, ngu gì không bỏ túi, mới mở lồng thả con mẹ già “nhà văn không đáng giá cục phân” ra, cho thỏa lòng thằng Tây mũi lõ để hằng năm ta xách bị gậy qua Pháp lãnh tiền phát chẫn. Vẫn thắng lợi chán!

Chỉ tội nghiệp mấy ông trí thức khác không được bà Tổng Thống Công Gô hay Tân Ghi Nê Xích đạo nào đến viếng nữa nên đành nằm ấp nhiều năm để cay đắng nghiền ngẫm cái tình nghĩa “đồng chí đồng rận” nó khốn nạn ra làm sao!

Sở dĩ cái bệnh của ông Hai ngày càng biến chứng nặng thêm, một phần cũng do bà Hai vô tình kể lại cái chuyện “cải cách giáo dục” của Đảng ta.

Trước bảy lăm, bà Hai là giáo viên của ông Hai. Sau bảy lăm ông Hai đi tù cải tạo. Cô giáo (nay là bà Hai) tiếp tục phục vụ cho Nhà Nước ta. Cách dạy các con em hoàn toàn thay đổi, khác trước một trăm phần trăm.

Cách mạng mà! Không thể dạy giống như bọn Ngụy được.

Phương pháp giáo dục mới của Chủ Nghĩa Xã Hội bây giờ là “hai tổng một phân” không giống phương pháp “thính thị” như Sư phạm cũ.

Ông Hai nghe tới đây lại cười sặc lên:

- Giáo dục gì mà có “phân” ở trỏng? Bà làm tôi nhớ đến câu đối của ông sĩ phu Bắc Hà:

- Thứ cứt gì cũng phân!

- Mà phân thì như cứt…

Bà Hai lừ mắt nguýt ông một cái dài:

- Cứ để cho tôi kể cho mà nghe! Tổng là tổng hợp. Phân là phân tích. Chớ không phải phân là cứt đâu. Các em trước kia học vần: a, b, c… đọc là a, bê, xê.

Nay văn hoá Xã hội Chủ Nghĩa a, b, c phải đọc lại thành a, bờ, cờ. Mấy cô giáo, thầy giáo chế độ trước phải tập lại cách đọc vần trẹo cả lưỡi, sái cả mồm để “lên lớp”. Vở soạn bài bây giờ phải theo Tàu kêu là “giáo án”. Chắc là cái điềm: Thầy giáo thành “tháo giầy”. Giáo chức thành “dứt cháo”. Giáo án thành “dán áo”.

Bà Hai kể tiếp:

- Hồi xưa mình đánh vần chữ khổ là: ca - hát - ô - khô - hỏi - khổ. Có khổ đi nữa cũng còn ca hát. Bây giờ đánh vần theo “văn hóa mới” “hai tổng một phân” là phát âm chử khổ trước, đó là một tổng. Xong tới “phân”, phân ra khờ - ô - khô, rồi “tổng” lần thứ hai, hỏi - khổ. Tức là chưa khổ đã khờ rồi.

Ông Hai nghe kể tới đó cười hộc lên một tiếng nghe như tiếng chó mắc xương, bèn lấy tờ giấy trắng ra viết hai hàng mẫu tự, chìa cho bà Hai xem rồi đố:

- Bà đọc thử mấy cái mẫu tự này coi!

Bà Hai ghé mắt vô rồi lẩm nhẩm đọc theo cách giáo dục mới:

- Nờ, cờ, mờ, hờ, u, ơ.

Mờ, cờ, nờ, hờ, mờ, rờ, cờ, nờ.

Đọc xong, bà Hai không hiểu ông đang dở trò qủi quái gì nên thắc mắc:

- Khi không ông biểu tôi đọc ba cái chữ này có nghĩa gì, mà để làm chi vậy?

- Ấy! Thủng thẳng tôi chỉ cho bà xem cái “ưu việt” của văn hóa mới. Mấy cái mẫu tự tôi viết gồm có:

N, K, M, H, U, Ơ,

M, K, N, H, M, R, Q, N.

Nếu đọc theo lối cũ mình sẽ có hai câu thơ rất vui mà lại dễ nhớ. Cái cách này tôi học ở Thầy Bửu Cân. Hồi nãy bà đọc mờ, nờ, hờ… tôi tức cười quá mà ráng nín, sợ bà giận. Bây giờ tôi đọc cho bà nghe nè:

Anh ca em hát u ơ,

Em ca anh hát, em rờ cu anh!

Đọc xong ông Hai cười ha hả, lấy làm khoái chí lắm. Bà Hai đỏ mặt, lấy ngón tay xỉa vào trán ông mắng yêu:

- Đồ qủi! Rồi cười mím chi con cọp.

Ông Hai được trớn, lướt tới:

- Bà thấy chưa! Cái cách đọc lờ, mờ, hờ gì đó của “Cách Mạng ta” người nghe cũng phờ râu tôm rồi kể chi tới người đọc cũng đờ cả lưỡi! À mà này bà! Chớ mấy cái ông lãnh đạo Giáo dục của bà hồi đó với mấy cái ông lãnh đạo Nhà nước ta khi nói tới cái đài phát thanh B.B.C của Anh Quốc thì họ đọc là đài Bờ Bờ Cờ hả?

- Đâu có! Họ vẫn đọc là Bê Bê Xê đó chớ!

- Vậy rõ ràng là “nói vậy mà không phải vậy” phải không bà? Ông Thiệu làm Tổng Thống mấy năm không để lại công đức gì cho đất nước cả mà chỉ để lại cho đời một câu nói đáng giá bạc tỉ: “Đừng nghe những gì Cộng Sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm”.

Bà Hai hình như cũng bị lôi cuốn theo cách hài hước cố hữu của ông nên cũng tích cực tham gia, đóng góp ý kiến cho “nền cải cách giáo dục” ngày càng tiến lên xã hội chủ nghĩa ưu việt và vô địch:

- Bữa trước, tôi có gọi điện thoại về Việt Nam thăm mấy cô bạn còn đang đi dạy, họ cho biết năm nay lại có cải cách mới. Ông Tiến sĩ gì đó trong Bộ Giáo Dục mới khám phá ra một phát minh quan trọng là trẻ con mới sinh ra không có kêu lên a…a…đầu tiên mà là e.. e.. be… he…, nên ông quyết định đổi sách giáo khoa toàn bộ dạy con em Mẫu Giáo bắt đầu bằng chữ e, be, bờ e be, he, hờ e he rồi tiếp theo chữ d, con dê, dờ ê dê…

Nghe tới đây, ông Hai lại cười hộc lên một tiếng. Lần này không nghe như tiếng chó mắc xương mà nghe như tiếng heo ăn nhầm cám trộn mạt cưa, kêu “khặc” lên một tiếng rồi ngã ngửa ra bất tỉnh.

Bà Hai hết hồn, vội đánh dầu con Ó xanh lên trán, lên màng tang và giựt tóc mai ông Hai gần sứt cả chùm tóc, hồi lâu ông mới tỉnh. Từ đó về sau, bà Hai không dám đá động gì tới “nền giáo dục” ưu việt Nhà nước ta nữa. Bà sợ lần tới, dám ông đi luôn theo Bác lắm. Cái điều này thì bà không thích. Nhiều lần bà bắt ông phải nhổ nước miếng nói lại khi ông vô ý nói nhầm là đi theo Bác bán muối ở Vùng năm để làm kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Từ cái hôm ông bị “sốc” với cái tin chấn động, trẻ con mới sinh ra kêu lên hai tiếng “be he” thay cho tiếng oa, oa, a, a ông bị bệnh thật sự. Ông hay cười khan vô cớ. Lắm lúc ngồi một mình ông cũng cười. Đi quanh vườn ngắm mấy luống cải, luống hành, luống hẹ, luống é ông cũng liên tưởng tới tiếng trẻ sơ sinh vừa lọt lòng mẹ kêu lên “be he” ông lại cười ra tiếng, khiến bà ở trong nhà tưởng ông nói chuyện với ai, vội mở cửa sau ra xem, chỉ thấy một mình ông ở vườn với tiếng cười khô khốc.

Cửa nhà vắng vẻ, con cái có gia đình cơ ngơi riêng, lâu lâu chúng mới đến thăm một lần, nên khi bà đi làm, ông ở nhà một mình cô đơn, buồn bả. Ông đánh bạn với ông Đót Côm hàng ngày cho vui, sau giờ đi làm về. Vợ chồng ông đi làm trái ca. Hai người như mặt trăng, mặt trời. Khi ông lên thì bà xuống. Chỉ tối mới gặp nhau. Cơm nước xong, ông dính vào cái ông Đót Côm. Bà dính vào cái màn hình Ti Vi, say mê theo dõi cái đám thể thao. Đêm nào không có đội “Ba Trịt” (Patriots) dành nhau ném trái banh cà na thì cũng đội “Rét Xót” (Red Sox) tranh nhau đánh khúc côn cầu.

Cái bệnh cười ngớ ngẩn của ông có lẽ bắt nguồn từ khi ông đọc được bốn chữ “khúc ruột ngàn dậm” của Nhà Nước ta bắt đầu kêu gọi những người trước kia bị miệt thị là thành phần “đĩ điếm, phản quốc” chạy theo ôm chân đế quốc Mỹ để ăn bơ thừa sữa cặn.

Lần đầu tiên, đọc lời kêu gọi này trên báo “Nhân dân”, ông cười sặc cả ly nước trà đang uống. May mà bà Hai ngồi xéo một bên chớ không thì đã lãnh đủ một trận “tsunami” vô mặt. Dứt cười, ông đọc lại cái gọi là “lời kêu gọi khúc ruột ngàn dặm xa tổ quốc hãy mau mau trở về xây dựng tổ quốc” Nhà Nước đang mở rộng vòng tay đón chờ… cho bà Hai nghe. Xong ông kết luận:

- Báo Nhân Dân đăng như thế còn thiếu “ý Đảng lòng dân”. Phải đăng đầy đủ câu như thế này: Hởi những “đồng tiền” liền khúc ruột ngàn dặm… mới trúng tim đen của Đảng. Nếu mỗi năm, người Việt Hải ngoại không gửi về cho thân nhân trong nước hơn ba tỉ đô xanh thì “muôn đời Lục quân Việt Nam”, Đảng ta vẫn kiên quyết đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào. Làm gì có chuyện kêu gọi thảm thiết đến như thế?

Tiếp theo sau lời kêu gọi, Nhà Nước ta ban hành Nghị quyết 36 về việc bảo vệ người Việt ở nước ngoài càng làm cho bệnh cười ngu ngơ của ông Hai thêm nặng. Ông càng đọc càng cười to. Tiếng cười có lúc thống khoái có lúc lại bi thương.

Thống khoái bởi “cái đám đĩ điếm, phản quốc” nay được Nhà Nước o bế như đồ quốc bảo.

Tha hồ mà sướng nhé!

Bi thương bởi e rằng sẽ có những con cừu già đầu có sừng vẫn còn ngây thơ tin vào cái Nghị quyết này mà thân bại danh liệt. Cái gương tày liếp từ năm 45 kéo dài cho đến 75 còn sờ sờ ra đó, Cọng Sản đâu có dung túng cho một ai ngoài cái đảng của mình. Kể cả đứa anh em con ngoại hôn có cái tên là MTGPMN một thời ruột thịt chi viện. Một thời được âu yếm gọi là “Miền Nam trái vú sữa trong tim Người”. Thế mà vừa chiếm được miền Nam hôm trước, hôm sau ông anh VNDCCH giết ngay thằng em đã cúc cung tận tụy gài mìn, đặt bom, phá cầu, đào đường… dọn cổ cho ông anh ngoài Bắc vào xơi, để một mình một chợ, đổi thành cái tên mới cho hợp với chủ nghĩa Quốc Tế vô sản là CHXHCNVN.

Chẳng cần phải giở lịch sử lâu lắc ra làm chi cho mất thì giờ để chứng minh sự lật lọng của Cộng Sản. Mới đây thôi, ngay cái việc Đảng ta kêu gọi mọi người hãy giúp Đảng chống tham nhũng. Tham nhũng là quốc nạn. Nhiều anh tưởng bở vội vàng xắn tay áo lên nhào vô giúp, xin thành lập “Hội chống tham nhũng”, đứng bên cạnh Đảng, mong giúp Đảng trong sạch hóa guồng máy Xã Hội Chủ Nghĩa. Giấy xin phép (giúp Đảng mà còn phải đơn từ xin phép, thiệt là chuyện lạ. Ai đời, đem công, đem của đi giúp người mà phải xin xỏ lậy lục người cho phép!) vừa đệ trình lên, cả bọn đã bị cum đầu vô tù ráo trọi.

- Tao nói thế chứ tao có bảo chúng mày được phép chống tham nhũng đâu mà chúng mày vớ vẩn! Chúng mày chống tham nhũng tức là chống Đảng, chống chúng tao! Biết chửa! Đồ ngu!

Dĩ nhiên sau đó, mấy cái anh thơ ngây trên đều bị hộc máu mồm hết. Lại còn bị dập cả dế nữa.

Chuyện nội bộ Đảng ta còn là như vậy. Huống hồ chi mấy cái anh Ngụy ôm đầu máu chạy bán sống, bán chết mới vượt được ra khỏi nước, mặt còn xanh lè vì sợ, hơi thở chưa kịp điều hòa vì thất đảm hồn kinh cái ngón đòn đánh tư sản mại bản, bu gi chưa kịp hồi phục lại bình thường vì bị teo thót dế lúc co giò chạy, thì Đảng ta sá gì “một lưỡi gươm chém ruồi” mà không tặng cho cái đám “Việt kiều yêu nước” ôm tiền về đâu tư xây dựng sau khi đã nạp mạng. “Yêu Tổ quốc tức yêu Xã Hội Chủ Nghĩa”. Anh nào quên câu thần chú đó thì tiền của kể như đi đong mà đời thì coi như tàn theo đời cô Lựu. Yêu nước chỉ có người Cộng Sản độc quyền. Giống như ngày xưa, thời Cộng Hòa có nhiều anh chính khứa độc quyền chống Cộng. Câu nói chế diễu bất hủ của cố nhà văn Duyên Anh:

- Xê ra cho người ta đi chống Cộng!

đến nay vẫn còn cười được.

Về cái chuyện nhiều anh “Việt kiều yêu nước” đa số là ở Úc và Mỹ tí tởn ôm tiền về nước đầu tư theo cái Nghị quyết 36, chỉ thời gian ngắn hai năm đã ôm đầu máu chạy ngược về, nín khe không dám hó hé khóc một tiếng, vì sợ Cộng đồng hải ngoại biết được nó cười cho thúi đầu “già mà dại”.

Ông Hai có lời bàn Mao Tôn Cương với bà Hai:

- Lỗi là do mấy anh “già đầu mà dại ” đó, chớ chẳng phải do ở Đảng và Nhà Nước nước ta! Tại mấy anh đó dốt không hiểu cái ý sâu xa bí ẩn trong cái Nghị quyết. Nhà Nước đã nói rõ trong đó là: Đừng có dại mà về!

- Ông nói lạ! Nghị quyết nào lại nói vậy?

- Bà cứ nhìn con số 36 thì nghiệm ra ngay thôi. Tại sao Nhà Nước ta không dùng con số 34, 35 hoặc 37 hay 38 để làm Nghị quyết mà lại chọn con số 36. Nghị quyết tức là trí tuệ cả một Bộ Chính trị to đùng và đầy mưu lược chớ đâu phải chuyện tơ lơ mơ bạ đâu dùng đấy. Con số 36 đó đã rút ra trong Binh pháp Tôn Tử đấy. Nguyên văn của nó là “Tam thập lục kế: Đào tẩu vi thượng sách”. Diễn nôm ra là: Trong 36 kế, kế bỏ chạy là hay nhứt. Rõ như thế mà không nghe, cứ nhắm mắt mà về thì làm sao Nhà Nước không dạy cho bài học nhớ đời?

- Lời bàn của ông là Mao tôn Gàn chớ Cương gì! Cương ẩu thì có!

- Gàn hay Cương gì cứ lấy thực tế chứng minh thì biết ngay. Tôi chỉ luận theo phép lô gíc của “Duy vật biện chứng pháp” thôi. Bà “hãy đợi đấy” mà xem. Hồi sau sẽ rõ!!!

Hôm mồng một Tết năm con gà vừa qua, nhằm ngày giữa tuần, ai nấy vẫn phải đi làm như thường. Ông Hai làm ca hai nên được ở nhà buổi sáng. Ông rót nước, thắp nhang trên bàn thờ tổ tiên khấn vái xong, quay qua ăn sáng với cái bánh chưng đầu năm với dưa món, củ kiệu. Kiêng cử mãi, bây giờ mới được ăn nhân mỡ, ông xực luôn nửa cái bánh. Thiệt là quá đã. Đang lúc khát nước, ông xẻ thêm trái dưa hấu đầu năm vừa bói thử dưa đỏ hay hồng, vận may hay không, vừa ăn cho mát miệng. Dưa đỏ tươi lại có cát. Ông xơi luôn một phần tư trái dưa. Kết quả ngày hôm đó ông bị phát ách, bụng ông cứ nê, cứng như cái trống.

Bà quở:

- Đã bảo “minh bất thực quả” mà!

Ông đang mệt vì cái bụng mà cũng phải phì cười vì hôm nay bà bỗng xổ nho chùm.

- Thế ăn vào buổi trưa thì nói làm sao?

Bà ngẩn ra một lúc rồi nói có vẻ gượng gạo:

- Thì… thì… “ngọ bất thực quả”!

Đến lúc này thì ông cười sặc sụa, cười quặn cả ruột.

Bà tự ái nổi cáu, gắt:

- Có gì mà cười? Tôi nói không đúng sao?

- Thì đúng tôi mới cười chớ! Mà sao hôm nay bà lại xổ nho chùm ngon lành quá mạng vậy?

- Vịt ở với gà lâu ngày cũng phải biết gáy chớ? Ông chưa bao giờ thấy gà mái gáy?

- Thấy rồi! Thấy rồi! Bởi thấy bà gáy nên tôi nhớ lại chuyện cái bà Tôn Nữ thị Lo Huyền được Nhà Nước ta cử sang đi du thuyết tại Mỹ để rải độc về vụ Việt Nam bị Mỹ xếp một trong ba nước “có vấn đề”.

- Chuyện có gì mà cười? Bà ta đi nói năm ba câu cho có lệ chớ thuyết phục được ai? Còn nghe nói toàn đi cửa sau rất thê thảm nữa kìa!

- Bà cũng rành cái vụ này dữ! Tôi cười là vì cái chữ ngọ của bà kìa!

- Cái chữ ngọ tôi nói ăn nhằm gì tới cái rải độc của bà Lo Huyền?

Ông Hai vừa cười tủm tỉm vừa kể:

- Có ông bạn bên Ca Li gọi điện thoại kể chuyện bà Lo Huyền đi du thuyết cho tôi nghe. Hôm bầu đoàn thê tử của bà vừa tới Phăng Xít Cô định tổ chức gặp gỡ với mấy anh mũi lõ thì bị một đám đông người Việt hải ngoại mang biểu ngữ với cờ vàng đứng trước Tòa Tổng Lãnh sự đòi gặp bà Lo Huyền để đối chất. Bà Lo Huyền không dám tiếp, chỉ núp trong Tòa nhà nhìn ra, thấy một ông áo dài, khăn đống, cụ râu ba chòm, dài tới ngực, trắng như cước, tiến vào trước cửa Sứ Quán dùng phấn viết to một chữ “ngọ” rồi kéo đám biểu tình đi. Bà Lo Huyền và mọi người trong Sứ quán ngơ ngác không hiểu gì sấc. Họ cười ầm lên cho là lão già điên. Mới có mười giờ sáng mà viết chữ ngọ là mười hai giờ trưa. Không biết lão muốn nói hay thưa gởi điều gì. Anh bạn hỏi tôi có hiểu ý nghĩa chữ đó không? Tôi nghe kể bèn cười ngất. Nói với anh bạn rằng ông già thâm Nho đã chửi xỏ bà Tôn Nữ thị Lo Huyền đó là “Đồ trâu bò! Sợ không dám ló đầu ra!” Anh bạn nghi ngờ cái cách giảng nghĩa của tôi, hỏi lại:

- Có thiệt không đó anh bạn già? Anh cứ cà rỡn cái kiểu “ Tội gì không biết tội gì? Sáng ra lãnh củ khoai mì tí teo” ở trong A.30!

- Thiệt đó! Tôi nói chuyện “đứng đắn đi tới hôn nhân” đó. Bởi chữ “ngọ” là do chữ “ngưu”, Hán tự, viết không có ló cái đầu ra. Tức con trâu không ló đầu thành ra chữ ngọ. Nếu ông bạn vàng không tin lời tôi thì cứ giở Từ Điển Hán Việt của Đào Duy Anh, do Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội in lại năm 2001, quyển Hạ, trang 32 dòng thứ 10 sẽ thấy ngay.

Thấy tôi nói có sách, mách có chứng, anh bạn cũng hơi tin tưởng, bèn hỏi thêm:

- Nè! Cái bà Tôn Nữ người Huế đó, xem trên Ti vi mặt mày coi cũng được, nhưng mỗi lần nhoẻn miệng cười làm duyên với phóng viên thì lộ ra một bó răng vàng lóng lánh coi xấu quá! Thời buổi này ai lại đi bịt răng vàng?

- Ậy! Vậy là anh bạn không biết tiểu sử bà này rồi! Bà này ngày xưa được Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa nuôi ăn học, gởi qua tận bên Pháp để du học nữa. Bằng cấp bà cũng to lắm. Nhưng rồi bà phản thùng, phản lại ân nhân nuôi nấng bà từ nhỏ tới lớn để chạy theo Cộng Sản. Hàm răng bà đã ăn gạo Quốc Gia mấy mươi niên đến độ cùn hết, nên bây giờ phải bịt vàng để nói năng chớ không thì nói ngọng sao? Anh bạn tôi nghe tới đó bỗng “ngộ” ra, ồ lên một tiếng như tiếng nước ống cống xả lù, rồi cười rống lên bên kia đầu giây, điếc cả tai, tôi phải vội vàng cúp máy.

Bà Hai cũng đã quen cái lối “nói láo mà chơi nghe láo chơi” của ông Hai nên nghe xong cũng cười xòa theo chớ không hỏi lại như ông bạn là “có thiệt hôn?”

Dạo gần đây, tối nào ông cũng “xợt” vô cái mục “Ý kiến bạn đọc” của đài B.B.C, để coi thiên hạ “tranh luận” về những chuyện “quốc gia đại sự”. Thỉnh thoảng bà Hai nằm coi Ti vi cũng giựt mình khi nghe ông vùng cười lên sằng sặc. Bà nhỏm dậy nhìn sang, hỏi ông chuyện gì mà cười dữ vậy. Ông trích đọc một số ý kiến trên diễn đàn cho bà nghe làm bà cau mày chớ không cười nổi. Bà càu nhàu:

- Thời buổi “mạng lưới thông tin toàn cầu” rồi mà sao còn có những người tự bưng mắt, bịt tai, sắm lưỡi gỗ, nói năng cái kiểu cách đây ba mươi năm, như cái ông Thái Long gì đó, bán sách ở Đà Nẵng nghe ngứa cái lỗ tai quá chừng. Ông này chắc là con cháu gì của ông thi nô Tố Hữu, mới lọt lòng mẹ đã gọi ngay tên Xít Ta Lin rồi. Thiệt là tài! Thiệt là không biết mắc cỡ cái miệng!

Nhưng hai cái chuyện sau này làm ông cười ngất đến nỗi bà Hai phải lật đật đưa ông vào bệnh viện để khám chẩn phòng căn.

Chuyện thứ nhất là cái Ngài Tổng Giám đốc hãng E-Việt Nam trả lời anh phóng viên đài B.B.C. Ông Hai cứ mở đi, mở lại cái đoạn Ngài Tổng E mắng anh phóng viên là “ở xa tổ quốc lâu ngày nên ăn nói thiếu văn hóa” và hù dọa anh chàng này là “có thu băng đấy nhé ” để nghe rồi cười ngắc nghẻo không thôi.

Thiệt là cái văn hóa của ông Tổng “cao ngất bằng cầu Ông Lãnh”. Cỡ anh chàng A.Q của ông Lỗ Tấn còn lâu mới theo kịp. Chí Phèo của Văn Cao là đồ bỏ.

Chuyện thứ hai là anh chàng bồi bút Nguyễn Phong Nhĩ của tờ An Ninh Thế giới viết một bài bôi bác Ông Trần Khuê, nhà nghiên cứu Hán Nôm.

Anh chàng Phong Nhĩ này là một ký giả chuyên nghiệp về bưng bô vấy bẩn thiên hạ. Ngoài cái lối viết duy nhất là bôi lọ, vu cáo, chụp mũ một cách hạ cấp hơn cả mấy bà bán cá chợ Quốc Toản, như ngón sở trường anh ta cứ dùng đi, dùng lại với mọi người hàng ngày, lần này anh được bơm xà phòng vào đít quá đô nên rất hung hăng con bọ xít. Anh ta thay luôn vị trí Ba Tòa quan lớn tuyên án và thay luôn chức năng mấy ông “cớm” đòi bắt giam ông Khuê.

Đọc mà thấy ớn…cười.

(Nghe nói anh này được Báo Công An coi như là một “mũi nhọn xung kích” chuyên dùng để đột kích bất cứ ai có lời nói khác Đảng, trước một vài số báo, rồi sau đó Công An hình sự dàn dựng hiện trường giả như lấy cớ đi xe không có giấy tờ, đi thăm người không xin phép trước vv…để bắt họ bỏ tù)

Rõ là chẳng còn gì phép nước. Một anh ký giả quèn, mỗi ngày phải gò lưng, bẻ cong ngòi bút ráng rặn ra một bài ca tụng lãnh tụ để kiếm cơm, nuôi vợ, nuôi con (còn dư chút ít nuôi U 20) mà còn hống hách cái lối đó thì còn lạ gì cái anh Xã trưởng ở cái Xã “vùng sâu, vùng xa, hải đảo” hạnh hoẹ, quát nạt dân đen, vạch quần trỏ vào chim cu:

- Đảng là tao nè! Luật pháp là tao nè!

Đọc xong bài báo, ông Hai cười nghiêng, cười ngã, cười quặn cả ruột, cười thắt cả lưng, không nín được nữa. Hai mắt ông trợn trừng, hai tay ông bắt chuồn chuồn, miệng không ngậm lại được giống như động phong. Bà Hai hoảng vía, run lập cập, bấm phôn “cọt lét” gọi 911, nói vừa tiếng Anh lẫn tiếng Việt, tiếng được, tiếng mất:

- Y mớ giăng xi! Mai hất ben sắp đai! Heo! Heo!

Chừng hơn năm phút sau, một xe cảnh sát chớp đèn xanh, đỏ, vàng nhấp nháy chạy trước dẫn đường, phía sau một xe cứu thương hụ còi “oéo, oéo” chạy theo và sau chót là chiếc xe Cứu Hỏa màu đỏ to đùng, rú còi rền rỉ vang động cả khu phố, nối đuôi đậu trước cửa nhà ông Hai. Hàng xóm hai bên mở cửa thò đầu ra nhìn thấy hai y tá khiêng cái băng ca từ trong nhà ra, bên trên ông Hai nằm ngay đơ, tay chân được cột chặt vào băng ca, miệng được chụp ống dưỡng khí để thở. Bà Hai theo sau mếu máo khóc, cái miệng méo xẹo. Hai viên cảnh sát đứng chận hai đầu đường không cho xe chạy qua, chạy lại sợ làm cản trở công tác cấp cứu. Bốn nhân viên chữa lửa cầm hai cái khoèo móc dài thoòng và hai cái búa rìu sáng choang, chuẩn bị xông vô phá cửa nếu như gặp trường hợp bệnh nhân mập to quá khiêng không lọt qua cửa.

Ba chiếc xe lại hú còi chạy thẳng đến bệnh viện. Ông Hai được hai Bác sĩ và bốn y tá túc trực trước cửa “chào đón” vì đã được báo trước.

Suốt ngày hôm đó, ông Hai được vô nước biển, nằm phòng lạnh hồi sức. Bác sĩ, y tá lăn xăn bắt mạch, nghe tim. Khắp người ông Hai giây nhợ lòng thòng bao quanh để đo điện tâm đồ, điện não đồ. Cả cái ngón tay trỏ cũng còn bị kẹp thêm một cái kẹp màu đỏ. Thiệt đúng là bị kềm kẹp. Nhưng ông mệt nhất là với cái đám sinh viên thực tập. Ông nào bệnh hoạn gì, chỉ vì cười quá khiến cho cơ bắp bị chuột rút thôi như hồi ông đi tắm biển bị vọp bẻ vậy. Tại bà Hai quýnh quáng kêu 911 nên ông đành nằm yên chịu trận cho “nhà thương muốn mổ thì mổ, muốn xẻ thì xẻ”. Ông lại cười thầm trong bụng để xem họ phán ông bị bệnh gì. Cái đám thực tập mỗi đứa cầm một bảng ghi chép trên tay gồm mấy chục câu hỏi. Hết đứa này, đến đứa khác cứ bao nhiêu câu đó hỏi tới, hỏi lui. Ông trả lời đến đứa thứ năm thì bắt đầu nổi khùng:

- Ai em vé ri thai! Ai em gấu inh tu đai! Li mi ờ lon !Bờ li!

Đến lúc đó, cái đám sinh viên mới chịu rút lui.

Qua ngày thứ hai, ông được đưa ra khỏi phòng lạnh để khám tổng quát. Lấy máu xong, lại lấy nước tiểu. Hết vạch mắt tới le lưỡi. Khám từ đầu cho tới đít. Hết hả họng cho Bác sĩ chiếu đèn vô trong rồi bắt le lưỡi kêu a…! a…!, lại khom lưng tụt quần cho Bác sĩ ngoáy ngón tay vào hậu môn, nhột muốn chết. Suýt tí nữa ông lại phì cười.

Lâu lắm, kể từ lần khám chót tại Bệnh Viện 30.4, để được xác nhận hoàn toàn khoẻ mạnh, đủ tiêu chuẩn bước lên máy bay đến nay, hai viên “ngọc hành” của ông mới được hai ngón tay ông Bác sĩ nâng niu âu yếm trở lại. Ông cảm thấy nhột nhột. Lại muốn cười. Bảng nhận xét bệnh lý tổng quát của ông, thấy mọi cột đều quẹt chữ “gút’. Ông yên tâm biết lục phủ ngũ tạng mình được phê tốt.

Cái trục trặc duy nhất là ở phòng khám mắt. Lúc Bác sĩ Nhãn Khoa tắt đèn trần nhà, bật sáng cái bảng đố chữ ở trên vách lên, cầm que hỏi từng chữ, ông nói róc róc không sai một chữ. Nhưng đến hai chữ G và J ông đọc lộn tùng phèo. Chữ G ông đọc thành dzây. Chữ J ông đọc sang dzi. Đọc xong ông biết mình lộn nên cười hực lên một cái, vội vàng chữa lại. Đang lúc lúng túng ngượng nghịu, cái que lại chỉ chữ W ông đọc ngay như phản xạ của mấy “ảnh” :

- “Vê kép” Ý lộn! Xin lỗi! Sorry! Đấp bơ liu!

Lính quýnh ông xổ luôn tiếng Anh, tiếng Việt hầm bà dằn, khiến viên Bác Sĩ cũng mỉm cười theo.

Cái chót là chữ @. Không biết có phải do nhập tâm cách đọc của mấy ông bà xướng ngôn viên đài B.B.C không, tự nhiên ông buột miệng đọc “a còng”. Chưa kịp đọc chữa, Bác Sĩ đã:

- What? What did you say?

- Oh no! Sorry sir! That is “at”! Ông vừa cười sằng sặc vừa trả lời.

- O.k! Good! No problem!

Tổng kết cuộc khám dài dằng dặc cả buổi sáng, qua nhiều phòng khác nhau, Bác sĩ trực chính phê vào ô kết quả hai chữ “Nó Mồ”. (Normal)

Ông Hai mừng rơn.Thế là ông thoát nạn.

Tuy nhiên trong hồ sơ bệnh lý lại ghi chú “đề nghị chuyển bệnh nhân đến Bác sĩ tâm lý để nghiên cứu về tâm thần”.

- Lại khổ cái thân già nữa đây.

Ông Hai vừa đi vừa lẩm bẩm trong miệng. Ông lại sực nhớ tới cái ông ký giả Phong Nhĩ trong bài báo bôi lọ ông Trần Khuê, nhà nghiên cứu Hán Học,và đòi bắt nhốt ông này trong nhà thương Tâm thần vì đã dám viết nhiều bài trên Web Ý Kiến để góp ý với Đảng. Bất giác ông lại cười lên khanh khách.

Vừa bước chân ra phòng đợi, bà Hai đã chực sẵn, đon đả chạy tới, thấy ông cười cười, bà cũng yên tâm, vững bụng:

- Có sao không ông? Ức hiếp nổi gì mà còn cười nữa? Người ta lo muốn chết đây! Thiệt tình!

- Cười chớ! Tôi mà không có cái “phi ke” (free care) hộ thân thì làm gì được chăm sóc chu đáo đến tận răng như thế này? Nghĩ đời cũng đáng cười lắm chớ. Bà đừng có “no”. Để Nhà Nước “no”.

Ông Hai lại diễu bà cho bà bớt hồi hộp.

Bà Hai chở ông về nhà chuẩn bị tuần tới đi thăm Bác Sĩ tâm lý. Ông Hai rất sợ tới bệnh viện. Tuổi càng về già càng sợ bệnh viện. Ông lý luận gàn:

- Đi tới Bác sĩ, không bệnh này thì cũng bệnh kia! Mấy cha nội Bác sĩ cứ đẻ ra bệnh để moi tiền.

Hôm đến gặp Bác sĩ tâm lý, ông Hai được đưa vào một căn phòng, bên trong bài trí rất ấm cúng, tạo cho bệnh nhân có cảm tưởng thân mật như đang ở nhà mình. Nền trải thảm đỏ màu mận chín. Ghế sô pha bọc nhung cùng màu. Tường dán giấy màu vàng nâu và treo tranh phong cảnh rừng phong đang vào độ thu, lá phong vàng, đỏ cả một trời rực rỡ. Bác sĩ là một ông Mỹ già cở tuổi ông Hai, thân mật chìa tay ra bắt và nói mấy lời xã giao. Ông Hai cảm thấy yên tâm, vừa đáp lại mấy lời khách sáo, vừa liếc trên bàn Bác sĩ, thấy tập hồ sơ bệnh án của mình đã nằm sẵn trên đó hồi nào rồi.

Bác sĩ hỏi vớ vẫn ba điều bốn chuyện về đời sống, về sinh hoạt hàng ngày của ông Hai rồi dần dần chuyển qua các thú vui, các sở thích… để có thể tìm ra nguyên nhân vì sao ông lại mắc chứng … ưa cười đến nổi thành bệnh: chấn thương tâm lý.

Đến phần đọc sách báo, ông Hai cho biết mình hay cười khi đọc báo chí ở quê nhà. Ông Bác sĩ sáng mắt lên, có lẽ đã tìm được cái con “vi rút gây cười”, nguyên nhân bệnh lý. Ông yêu cầu kể lại vài ba chuyện điển hình để ông tìm hiểu thêm. Ông Hai mới kể tóm tắt có mấy chuyện mà ông Bác Sĩ đã bị lây bệnh tức thì. Ông cười lên hô hố rồi chuyển sang ha hả, rồi rít lên thành hinh hích. Ông ôm bụng cười quặn cả ruột. Mặt ông đỏ bừng bừng. Hơi thở ông hổn hển. Ông cố nín cười mà không nín được. Cuối cùng, biết sắp nguy, ông vội vàng bấm chuông gọi cô thư ký ngồi ở phòng ngoài vào.

Có lẽ đã quen với chứng cao huyết áp của Boss nên chỉ cần thấy ngón tay Bác sĩ chỉ vào mồm, cô thư ký vội vàng lấy một viên thuốc nhỏ xíu bỏ vào miệng ông. Mấy giây sau, ông mới bình thường trở lại. Ông Hai thấy cái cảnh ông Bác sỉ cười cũng hết hồn. Ông Hai chỉ mới khoe vài chuyện “cần kiệm liêm chính” của nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam mình cho ông ta nghe như: ông Lương quốc D. phụ tá Thứ Trưởng Thể Dục Thể thao quằm một em bé 13 tuổi để lấy hên, đền với giá một tỉ đồng tiền Cụ, mà Nhà Nước vẫn không chịu cho tại ngoại hầu tra. Ông Thứ trưởng bộ Ngoại thương Mai văn D. chỉ nhận có mấy chai rượu biếu (theo lời phân trần của vợ ông) vẫn bị Nhà Nước cách chức. Chuyện Hải quân Trung quốc bắn chết mấy ngư dân Việt nam để dành chỗ đánh cá là chuyện nhỏ vậy mà mấy thằng sinh viên bố láo ở Sài Gòn đi biểu tình phản đối, cứ hô hoán lên là Trung Quốc lấn biển, định làm mất tình hữu nghị đời đời Trung Việt. Lại đang đúng cái thời điểm Chủ Tịch nước đang ôm hôn thắm thiết thủ tướng Trung Quốc vĩ đại tới thăm viếng. Thật là cái bọn phản động làm mất chính trị. Vì vậy Công An hốt cả đám lên xe cây cho biết lễ độ. Và cho biết mùi cải tạo. Ông chưa kịp kể chuyện ông Tổng Hiển E- Việt Nam ăn nói “đủ văn hóa”, không thèm học tập ai, thích thì làm, chưa thích thì không làm, giống như ổng đang hành xử cái lá đa ở nhà của ổng. Và vài chuyện nữa như chó cán xe, xe cán chó, trên bảo dưới không nghe xảy ra thường ngày ở Huyện, thì ông Bác sĩ đã sắp chết vì cười. Càng nghe càng cười. Cười đến nỗi lên tăng xông máu. Ông Hai lật đật lấy hai tay bưng miệng lại, tốp kịp thời cái lưỡi đang ngon trớn, ngưng luôn cái chuyện sau cùng mới đây, chuyện ông Phong Nhĩ viết tiếu lâm chọc cười ông Trần Khuê, đã làm ông bị co rút cơ bắp phải đưa vào bệnh viện cấp cứu. Với tình trạng nhạy cảm như lúc nãy, ông Bác sĩ dám nảy dựng lên rồi vật ra mà chết ngay vì mắc cười với câu chuyện khôi hài quá mức. Ông dám bị kết vào tội ngộ sát lắm.

Thiệt may quá là may. Ông Hai tự nhủ thầm.

- Chuyện Nhà Nước ông thiệt buồn cười quá!

Mấy ông nhà báo, nhà văn của xứ ông viết chuyện tiếu lâm hay hơn ông Nesin Aziz ở xứ Thổ nhiều!

Bấy giờ ông Bác sĩ mới mở miệng được.

- Ấy chết! Bác sĩ! Ông nhầm rồi! Tôi nào dám cười cái chuyện Nhà Nước tôi?

- Thế ông mắc cái chứng cười từ báo chí thì là do đâu? Ở nước Mỹ tôi, ông Tổng Thống quằm một lúc ba em hơ hớ mà Quốc hội chỉ Đàn hạch sơ sơ vài ba câu rồi êm. Hết chuyện. Còn Nhà Nước ông nghiêm quá, chỉ phá trinh một em bé, nhằm nhò gì, trong lúc bán qua Thái Lan, Cam Pu Chia, Đài Loan cả mấy ngàn cô hơ hớ. Nhận vài chai rượu rắn, tắc kè, bỏ bèn gì so với ông Tổng Bí nhận quà cả triệu đô, mà lại bỏ tù người ta không phải là chuyện cười sao?

- Cái chuyện ông đang nghĩ và nói là đi ngược truyền thống chúng tôi rồi. Người Việt Nam tôi ai mà dám cười cái chuyện đó. Ủ tờ ngay tức khắc. Ông chưa biết câu “Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan” của xứ An Nam tôi rồi! Tôi cười là cười cái đám cầm bút kìa. Chúng ngày ngày đội mũ cánh chuồn đứng chực cửa hậu (môn) để lãnh chỉ thị của “mấy ảnh” ban xuống, rồi theo đó mà tán rộng ra, hoặc đánh người này, hoặc triệt hạ người kia, những người không chịu đi theo “dưới tấm bảng chỉ đường” của Đảng, viết theo sở trường bợ giỏi hay xuất sắc của mình mà tâng công lấy điểm. Họ chỉ nghĩ đến bậc lương sắp tăng nhờ bài báo nâng bi có “trình độ và chất lượng” chứ không viết vì lương tâm và lương tri.

- Thế thì quả là Đông Tây không gặp nhau rồi! Ở Mỹ, mấy cái “Sô” hài hước trên Ti vi đều đem các ông lãnh đạo ra làm đề tài diễu cợt hàng đêm có tính cách thời sự để thiên hạ cười chơi. Còn chuyện Quan lớn các ông sao nghiêm trọng quá.

- Đông Tây khác xa nhau nhiều lắm. Quan các ông, làm nhiều lắm là vài năm rồi về vườn, lại đi làm công cho các Hãng tư nhân. Còn Quan chúng tôi thì ngồi ở ghế muôn đời. Sắp chết, thở phều phào rồi mà họ còn cố “hy sinh” thêm cho trọn đời theo sự “yêu cầu tha thiết” của tuyệt đại đa số nhân dân.

- Làm gì có chuyện đó? Ông giỡn chơi chăng?

Chẳng nhẽ không có ai thay thế được ?

- Nhân tài xứ tôi thì nhiều vô số kể. Nhưng vẫn vô dụng nếu đít ai không đỏ. Mà có đỏ đít đi nữa cũng khó có cơ hội ngóc đầu chen lên trong khi quí vị “bình vôi” vẫn cương quyết hy sinh ngồi lỳ trên ghế. Những ông bà khoa bảng, học vị đầy mình từ nước ngoài về đều bị đánh giá là “không đáng bằng cục phân” nên tất cả đều ngồi chơi sơi nước lã. Tôi có cậu em vợ, du học ở Nga năm năm. Mang trên ngực tấm bằng “Kỹ sư vi sinh học” hí hửng về nước, tưởng sẽ làm được nhiều việc ích nước lợi dân. Ai dè “mấy ảnh” lật đít lên không thấy đỏ, bèn cho đi kiểm nghiệm song mây ở một Hợp tác xã chuyên làm đồ mây tre lá gọi là xuất khẩu. Tài năng cậu em tôi thui chột từ đó. Cu cậu bất mãn mà đành ngậm bồ hòn làm ngọt.

Thế ông không nghe những câu khẩu hiệu nước tôi à? Nào là “Chủ Tịch kính mến vạn tuế, vạn, vạn tuế”, “Muôn năm trường trị, thống nhất giang hồ”, “Chủ tịch sống mãi trong sự nghiệp chúng ta” vân vân và vân vân… Vì vậy, ai mà dám động đến cái lông chân các Quan ấy là chết tươi ngay. Không những đời mình mà còn liên lụy đến đời con, đời cháu, chắc, chút, chụt, chịt nữa đấy!

Cái ông quằm em bé mười ba tuổi chỉ là Thứ trưởng Thể Thao tép riêu nên bị đưa ra làm con dê tế thần mang tính chất trình diễn vở bi hài kịch dài nhiều màn, sau cái màn Năm Cam, Sáu Quít mở đầu. Nếu ông ấy làm đến chức Chủ Tịch nước, có quằm luôn ba em một lúc và cho đàn em hưởng sái nhì rồi ra lệnh đem đi thủ tiêu luôn, đố ai dám nói tới.

- Ghê thế à? Ghê hơn cả Mafia bên Ý nữa cơ à? Thế thì tôi nhầm lớn về cái văn hóa xứ ông và nhầm lớn về cái bệnh của ông. Tôi xin chịu, thú thật tôi không thể nào chữa cho ông được khi không hiểu thấu đáo tâm lý người bệnh. Mấy ông nhà báo bên tôi họ có quyền to lắm. Đó là đệ tứ quyền, sau ba cái quyền: hành pháp, lập pháp và tư pháp. Mỗi bài viết của họ có thể làm mất chức một ông quan to đấy! Còn cái kiểu viết theo “ngón tay chỉ huy” thì chắc cánh nhà báo ở Mỹ phải xin học tập các ông bên Việt Nam dài dài! Học đến sói đầu chưa chắc đã nên cơm, nên cháo!

- Đó là cái chắc! Áp sô lút tờ ly! Xơ! Tôi đã chẳng bảo ông đó là truyền thống là gì?

Hồi lâu, khi đã bình tâm trở lại, ông Bác sĩ giơ hai tay lên trời tỏ vẻ bất lực, lắc đầu ngao ngán với chứng bệnh tâm lý bất trị lại hay lây này. Và chịu thua trước con “vi rút gây cười” này. Ông đưa ra hai đề nghị để ông Hai tự chữa bệnh lấy, chứ hiện nay không có thứ thuốc nào hay Bác sĩ nào chữa được.

Một là hãy viết thư về Việt Nam yêu cầu họ (mấy ông bồi bút, thi nô) ngưng ngay chuyện viết và đăng những tin tức tiếu lâm độc hại này.

Hai là không nên đọc những sách báo có chuyện tiếu lâm tương tự như thế. Nên tìm sách lành mạnh mà đọc. Mỗi ngày nên đi bộ vài “mai” cho đầu óc thanh thản và cho máu huyết lưu thông.

Trước khi tiễn ông Hai ra cửa, ông Bác sĩ già khẩn khoản:

- Lần sau nếu trở lại, xin “sir” đừng kể những chuyện ấy nữa nhé. Cơ thể tôi bây giờ đã bị nhiễm thứ vi trùng độc ấy rồi. Nếu bị lần nữa thì không còn cách chữa.

- Không thành vấn đề! Bác sĩ đừng lo! Chưa chắc tôi có cơ may đến đây lần thứ hai nữa đâu!

Ông Hai lại quen tính đùa cố hữu.

Nói vậy chứ ông lo lắm. Trên đường về, trong lúc bà Hai chăm chú lái xe, ông suy nghĩ miên man về hai lời khuyên của ông Bác sĩ già.

Cách thứ nhất là điều không thể và không bao giờ được rồi. Ông là cái thá gì mà có tư cách bảo họ thôi đừng viết? Cả cái ông Thủ Tướng chức vụ to đùng, ngồi trên ngôi báu mà còn than “trên bảo dưới không nghe” thì còn trời cao đất dầy gì nữa? Mà giả dụ, ông có quyền năng sinh sát to như ông Đỗ Thập hay Lê Độc thì ông cũng không nỡ làm. Hãy nghĩ xem, hơn sáu trăm tờ báo đủ loại, cộng thêm hơn mấy chục cái đài vừa truyền hình, truyền thanh của Đảng ta, biết bao nhiêu con người bám vào đó để mà sống còn, nhờ vào cây viết, nhờ vào cái lưỡi. Nay ra lệnh ngưng thì họ chỉ còn biết bị gậy đi ăn mày, kéo theo bầu đoàn thê tử có khi lên đến mấy vạn nhân khẩu. Cả một đoàn quân ăn mày kéo lê từ Nam chí Bắc thì còn ra cái thống chế nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa gì nữa!

Thôi thì xin đấng Bồ Tát cho mượn đỡ cái lòng bác ái vị tha của Ngài để bắt chước bà lão trong “Cổ học tinh hoa” ngày ngày thắp hương cầu cho bạo chúa sống lâu, mà cầu cho họ sống lâu, sống khỏe, sống hùng, hy sinh đời bố sống nhục, làm thân bồi bút văn nô để củng cố đời con sau này có thể ngẩng mặt lên làm người. Và cũng cắn rơm cắn cỏ cúi lạy trăm ngàn lạy ông Khuê cùng với những ông khác đã lỡ dại có tấm lòng với nước non mà cười xí xóa cho những kẻ cầm viết như ông Nguyễn Phong Nhĩ, cũng chỉ vì miếng thịt là miếng nhục đành phải nghiến răng cắn chặt cái lương tri lại mà viết như thế, dẫu biết đó là hèn, là ô nhục.

Nhưng xét ra cũng đáng thông cảm và thương cho họ lắm. Việc họ làm chẳng qua là bất đắc dĩ của kẻ gia nô. Ông Nghiêu, ông Thuấn dẫu “hiền” cũng không ngăn được con chó của tên đạo chích cắn vì chủ !

Cũng xin nhắn riêng với ông Khuê rằng chỉ nội cái việc ông đi nghiên cứu “Hán Nôm” không thôi cũng đủ cho ông Phong Nhĩ dọa đưa ông vào nhà thương tâm thần rồi. Ai đời! Trong lúc cả mấy triệu người đua nhau nghiên cứu lịch sử Đảng, đua nhau bưng bợ lãnh tụ để kiếm cơm chim, ông lại đi làm ba cái chuyện “tào lao” như nghiên cứu Hán văn, viết báo phê bình “Hội thảo Gia Long”, “Hội thảo Việt Nhật”… Lại còn bày đặt viết Đối thoại tập 1, tập 2…linh tinh. Làm sao mà không làm cho người ta ngứa mắt. Ông ở tù là phải!

Đời vấy bùn cả, ông sạch làm sao được?

Đời a dua nịnh bợ cả lũ, ông nói lời ngay sao được?

Một bầy ruồi xanh và khuyển ưng, khuyển mã nó hăm dọa bắt ông vào nhà thương tâm thần để khóa miệng ông lại là hãy còn phúc cho ông. Nếu không thế, “bánh xe lịch sử” sẽ nghiền nát ông như cám nếu ông còn dám đi ngược lại guồng máy Đảng.

Và cũng cúi lạy trăm ngàn lạy ông Thủ Tướng Nhà nước, ông Tổng Bí Thư Đảng gia ơn khoan thứ cho “tay chân hạ bộ”, chín bỏ làm mười, giơ cao đánh khẽ đàn em mình nếu họ lỡ có vơ vét, xà xẻo đôi chút của dân nghèo vì công lao của cha ông họ cũng to lắm. Cha ông họ đã đổ nhiều xương, nhiều máu bảo vệ cái Đảng các ông bền vững đến ngày hôm nay (chưa chắc ngày mai) để các ông ngồi cao ăn trốc, hò hét i uông.

Vả lại cũng xin các Ông hiểu cho (mà hiểu quá đi chớ), cả một đám lu la lục lạc theo Đảng cốt là chờ chừng ấy thôi. Chẳng lẽ một đời theo Đảng, trung thành với Đảng, rốt cuộc chỉ có cái khăn quàng đỏ và cái bằng khen treo trên vách thì ai theo làm gì?

Nếu cứ bảo rằng trên bảo dưới không nghe thì cũng tội cho họ. Trên hốt thả dàn mà không cho họ ở dưới vét chút đỉnh thì cũng thiệt thòi cho họ.

Sau khi “trăn trở động não” một cách có “bản sắc đậm đà dân tộc” như vậy, ông Hai quyết định “hy sinh” thân mình, thà ông chịu mang bệnh “chấn thương tâm lý” cho đến chết chớ không chịu làm cái việc ác đức trên. Ông để đức lại cho con. Ông sợ sau này nếu có dịp áo gấm về làng, nhỡ rửng mỡ cặp kè với em “U 20” có con so với ông, e không có lỗ đít.

Ông theo đạo “thà người phụ ta chớ ta không phụ người” của mấy anh quân tử Tàu rởm.

Đột nhiên, như “mô măng quán tính”, cái miệng ông tự động lẩm bẩm:

- Trên bảo dưới không nghe thì cứ uống vài viên “vai a gờ ra” là khoẻ re như bò kéo xe!

Bà Hai đang chăm chú lái xe, nghe mấy tiếng “vai a gờ ra” liền đỏ mặt, quay sang mắng yêu ông:

- Ông già dịch! Mới ra khỏi cửa bệnh viện là đã nghĩ chuyện bậy bạ rồi!

Ông Hai biết bà vợ già của mình hiểu lầm chồng một cách có ý nên ngửa mặt lên trời, hả họng ra, cười một tràng ha hả thích chí.

Đến lượt bà Hai lắc đầu than thầm:

- Bệnh đến thời kỳ hết thuốc chữa rồi! Thiệt tình!

04.20.05
Nguyễn Thanh Ty

Lời nguyện đêm Giáng Sinh


Dec 24, 2008

Lạy Cha Thánh Chuá cuả con !
Quỳ ở nơi đây với cả tâm hồn,
Ngay trước bàn thờ mang hình Thánh Chuá
Con thấy như Ngài đang đến gần hơn.
*
Đường đi cuả Chuá cao cả sáng ngời,
Rực rỡ,õ huy hoàng nhưng cũng xa xôi
Không phải con đường phủ đầy hoa gấm,
Mà đầy gian khổ, tràn ngập khắp nơi.
*
Chúng con quyết tâm một lòng theo Chuá
Góp công xây dựng, biến đổi tương lai
Xoá đi cuộc đời còn lắm đớn đau, khốn khổ
Nghèo khó, chiến tranh, tội ác ngập đầy.
*
Đường đi sao nhiều vất vả gian lao !
Chuá đừng bỏ con, con biết ngả nào
Một mình tìm đi theo đường cuả Chuá
Lòng con nguyện cầu ân sủng trên cao.
*
Xin Chuá cho con thêm nhiều can đảm,
Lòng tin, kiên nhẫn, sức mạnh mà đi
Trên thế gian này còn nhiều hỗn loạn,
Hạnh phúc, thương yêu, bao kẻ đâu có biết gì ?
*
Lạy Chuá, Chuá cuả con ơi !
Tương lai nhân loại ửng sáng lên rồi
Bóng dáng thương yêu, hoà bình, hạnh phúc
Đến với bình minh nhờ ơn Thánh Chuá
Chan hoà, rực rỡ nắng ấm đầy vơi…

*
San Diego, California
Phạm Ngọc Nhiễm

Christmas Eve Prayers
***
Oh, my Lord, the Savior !
I've been here, kneeling for a long time
In front of the Holy Altar,
Watching your appearance from very far,
In the sphere brilliant with radiant light.
I've found your way very clearly,
Leading to the future of glory.
It's not only ornamented with colorful flowers,
But also plenty of dangers and difficulties.
I've firmly decided to follow
Your direction to a glorious peaceful life
With no human grief and sorrow,
Poverty, enviousness, wars and crimes..
How hard and dangerous is the way !
It's made me anxious nights and days.
Don't let me walk on it alone !
With all my heart, silently I pray :
Grant me, my Lord, the Savior !
More faith, patience and ability,
Some more courage and spiritual stability,
That'll encourage my heart always eager.
All the people on this globe need to be happy.
Oh, my Lord ! Through your miracle and grace,
The transformation to a wonderful new life
Has risen beyond the distant range of mountains
With a dawn full of brilliant sunlight,
Covering the poetic, immense green-grassed
plains..
*

San Diego, California
Phan Duc Minh
( Member of The International Society of Poets )










Phỏng dịch :


Page 1 of 1