Translate

Friday, March 13, 2009

Chung tay xây dựng

đứng bên này bờ biển Thái nhìn
về bên kia bờ ta thấy mảnh
đất hình chữ S thân yêu với
những cánh đồng lúa xanh bát ngát

những thôn xóm hiền hòa những vườn
cây trái ngọt ngào của miền Nam
những hàng dừa Tam Quan Bình Định
những vườn thanh long Bình Thuận và

trong tầm mắt của ta còn có
quần đảo Hoàng Sa và quần đảo
Trường Sa đang bị ngoại bang chiếm
đoạt ta còn phóng tầm mắt nhìn

về biên giới phía Bắc địa đầu
với Ải Nam Quan, thác Bản Giốc
hiện đang nằm trong tay giặc ta
lại đau xé lòng khi nghĩ đến

tiền nhân đã dày công dựng nước
thương thay cho Tổ Quốc Việt Nam !
ngày nao đất Việt thanh bình
chung tay xây dựng trong tình yêu thương

PHP
03/13/09

Đụng độ Mỹ - Trung và ý nghĩa với tranh chấp biển ở ĐNA

Trích VietNamNet

\
(TuanVietNam) - Góc nhìn riêng của Tiến sĩ Vũ Quang Việt, chuyên gia thống kê của Liên Hợp Quốc về đụng độ Mỹ - Trung trên biển ngày 10/3 và ý nghĩa của nó với tranh chấp ở khu vực.

>> Mỹ-Trung "đụng độ" trên Biển Đông
>> Luật mới của Philippines làm phức tạp thêm tình hình Biển Đông
>> Việt - Mỹ thảo luận về an ninh trên Biển Đông
>> Việt Nam phản đối Trung Quốc vi phạm chủ quyền lãnh thổ

Biển Đông Nam Á, tại sao?

Hiện nay, ngôn ngữ quốc tế gọi khu vực biển có tranh chấp ở Đông Nam Á là “biển Nam Trung Hoa” (South China Sea hay La Mer de Chine du Sud), có lẽ vì Trung Quốc được lấy làm vị trí chuẩn, chứ không mang ý nghĩa là biển này thuộc Trung Quốc.

Việt Nam đã gọi biển này là biển Đông cũng có ý nghĩa lấy Việt Nam làm vị trí chuẩn. Philippines cũng có thể tự lấy mình làm chuẩn và đặt tên biển này là biển Tây. Cũng thế, Malaysia có thể gọi là Biển Bắc.

Tinh thần gìn giữ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ đất nước "Biển của ta, đảo của ta!" được thể hiện trong triển lãm ảnh kỷ niệm 50 năm truyền thống Bộ đội biên phòng Việt Nam, tại TP.HCM.

Cách tốt nhất, theo quan điểm của người viết, là lấy tên của khu vực Đông Nam Á để đặt tên cho khu biển này, bởi vì nó nói lên tính quốc tế của vấn đề tranh chấp, đụng chạm đến trung tâm lợi ích về an ninh và kinh tế của các nước trong vùng Đông Nam Á, và đến chiến lược bành trướng của thế lực quân sự lớn nằm ngoài vùng muốn chiếm đoạt thật sự hoặc tạo ra đe dọa quân sự nhằm o ép các nước trong vùng chia phần lợi ích kinh tế cho họ và chấp nhận vòng ảnh hưởng của họ.

Yêu sách của Trung Quốc

Trung Quốc tuyên bố nhiều lần là chủ quyền của họ là trên toàn biển Đông Nam Á được xác định như một lưỡi bò, kéo dài từ Hải Nam đến tận Mã Lai (xem thêm bản đồ Trung Quốc tự vẽ ở dưới). Với việc xác định như thế, toàn biển Đông Nam Á là lãnh hải Trung Quốc, không còn phân biệt đâu là lãnh hải kể từ đường cơ sở xác định từ đất liền, đâu là vùng đặc quyền kinh tế và tất nhiên là không còn hải phận quốc tế nằm ngoài hai khu vực trên trên biển Đông Nam Á.

Nếu như thế, Việt Nam, Philippines và các nước khác mỗi lần đi qua biển Đông Nam Á trên nguyên tắc đều phải đặt dưới sự kiểm soát của Trung Quốc.

Việc xác định chủ quyền trên toàn biển Đông Nam Á của Trung Quốc đi ngược lại hoàn toàn Luật biển Liên Hợp Quốc và những hành động của họ đã và đang trở thành mối đe dọa thường xuyên cho an ninh của các nước trong vùng và của tất cả các nước phải đi lại qua vùng Đông Nam Á.

Tại sao việc xác định chủ quyền như thế là sai? Bởi vì Luật biển chỉ cho phép lãnh hải mà quốc gia có hoàn toàn chủ quyền nằm trong khu vực 12 hải lý tính từ đường cơ sở, và vùng được phép khai thác kinh tế (gọi là vùng đặc quyền kinh tế) rộng không quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở.

Trên thực tế ở biển Đông Nam Á, nếu giả dụ có một địa điểm nào đó được công nhận là đảo thuộc Trung Quốc và như thế nó có lãnh hải, có vùng đặc quyền kinh tế ở chung quanh, nhưng điều này cũng chỉ cho phép Trung Quốc có chủ quyền vài chỗ trên biển Đông Nam Á, chứ không thể trên toàn biển Đông Nam Á.

Hơn thế, coi những đá ở Hoàng Sa và Trường Sa là đảo là điều còn phải bàn cãi trên cơ sở Luật biển của Liên Hợp Quốc. Đảo theo định nghĩa của Điều 121 của Luật Biển “…là vùng đất hình thành tự nhiên, bao bọc bởi nước và nằm cao hơn nước khi thuỷ triểu lên.” Tức là nó không phải là “đá” vì theo Điều 122 “Đá (rocks), nơi không có khả năng kéo dài được việc cư trú (sinh sống) của con người và đời sống kinh tế riêng của nó, không được phép có vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa….

Ra với Trường Sa. Ảnh: VNN.


Như thế có thể nói là trên Hoàng Sa và Trường Sa, khó có thể chứng minh một nơi nào đó là đảo, vì cho đến khi có tranh chấp mới đây, không nơi nào có khả năng kéo dài được việc cư trú tự nhiên của con người, nếu không dựa vào tiếp tế và các công trình xây dựng nhân tạo được dựng lên. Luật biển Điều 60 nói rõ: “Các đảo nhân tạo, các thiết bị công trình không được hưởng qui chế của đảo.”

Trung Quốc đã đi quá điều ước quốc tế mà họ ký. Thật ra, họ đã dùng sức mạnh quân sự để chiếm đóng vùng biển, mà trong lịch sử rất dài không có dân Trung Quốc sinh sống thường xuyên và cũng không có mặt của nhà nước Trung Quốc thủ đắc địa điểm trên biển Đông Nam Á.

Những địa điểm trên Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Quốc đang nắm là kết quả của việc đem quân chiếm đóng từ tay chính phủ Việt Nam Cộng hòa trước đây (chiếm Hoàng Sa năm 1974) và chính phủ CHXHCN Việt Nam (chiếm một số đảo ở Trường Sa năm 1988), và gần đây nhất là từ tay Philippines (chiếm Mischief Reef vào tháng 2 năm 1995).

Bản đồ Trung Quốc vẽ. Nguồn: Bản đồ du khách và giao thông của Hải Nam năm 1999, phỏng theo Stein Tonnesson, “China and the South China Sea: A Peace Proposal.” Security Dialogue, Vol. 31, No. 3 September 2000.


̣Đường đỏ là vùng Trung Quốc tuyên bố chủ quyền; Đường xanh là các khu vực kinh tế EEZ theo Công ước LHQ về luật biển; Các đảo xám là nơi có tranh chấp.
Bản đồ từ BBC.

Yêu sách của Mỹ

Là một thế lực toàn cầu, Mỹ đã luôn luôn chủ trương là quyền thông thương tự do trên biển Đông Nam Á là thuộc lợi ích của Mỹ. Chính vì thế, Quốc hội Mỹ ra nghị quyết vào tháng 3 năm 1995 nhấn mạnh: “Quyền đi lại tự do trên biển Nam Trung Hoa nằm trong lợi ích chiến lược của Mỹ.” Ngày 10 tháng 5 năm 1995, Bộ Ngoại giao Mỹ phát biểu mạnh hơn: “Mỹ sẽ rất quan tâm đến bất cứ một đòi hỏi liên quan đến biển hay ngăn cản hoạt động hàng hải ở biển Nam Trung Hoa, không phù hợp với Luật Biển.

”Vào 16 tháng 6 năm 1995, Joseph Nye, Phụ tá Bộ Trưởng Quốc phòng về An ninh quốc tế nói với báo giới ở Tokyo là “nếu hành động quân sự xảy ra ở quần đảo Trường Sa và ngăn cản tự do đi lại trên biển cả thì chúng tôi sẵn sàng hộ tống và bảo đảm rằng thông thương tiếp tục.”

Những tuyên bố này nhằm cảnh cáo Trung Quốc khi họ mang quân chiếm MisChief Reef từ Philippines vào tháng 2 năm 1995. Nhưng chúng cũng phản ánh thái độ dứt khoát của Mỹ về quyền tự do đi lại trên hải phận quốc tế.

Trước đó, vào 1 tháng 4 năm 2001, Mỹ cho máy bay thuộc Cục An ninh Quốc gia (National Security Agency) bay qua vùng biển thuộc biển Nam Trung Hoa. Trung Quốc cho máy bay bay theo và đụng vào máy bay Mỹ. Máy bay Trung Quốc rớt, còn máy bay Mỹ bị hư hại phải hạ cánh xuống Đảo Hải Nam, gây ra tình trạng căng thẳng giữa hai nước.

Mỹ đã cho rằng tàu chiến của Trung Quốc “lượn quanh và diễu hành một cách khiêu khích và nguy hiểm sát ngay khu vực chiến hạm Mỹ USNS Impeccable". (Ảnh do Hải quân Mỹ công bố)


Mỹ đã xin lỗi về sự kiện đụng máy bay Trung Quốc rơi, nhưng từ chối xin lỗi về cái mà Trung Quốc kết án là Mỹ xâm phạm vào chủ quyền Trung Quốc. Mỹ cho rằng bay ngoài vùng cách lãnh hải Trung Quốc 60 km (32 hải lý) là thuộc quyền tự do thông thương trên bầu trời nằm trên vùng đặc quyền kinh tế; việc này hoàn toàn hợp pháp theo Công ước về Luật biển.

Lần này, ngày 10 tháng 3, nhân Obama mới nhận chức, và nhân việc Mỹ cho tầu có tên USNS Impeccable thám thính hoạt động tầu ngầm của Trung Quốc trong vùng biển Đông Nam Á cách đảo Hải Nam 75 dặm, ngoài vùng lãnh hải và thuộc khu đặc quyền kinh tế, Trung Quốc cho 5 tầu chiến gây hấn. Mỹ cũng đã cực lực phản đối Trung Quốc, và coi đây là quyền tự do lưu thông theo Luật biển.

Luật biển Liên Hợp Quốc

Hành động và tuyên bố của Mỹ về biển Đông Nam Á hoàn toàn phù hợp với việc bảo đảm quyền tự do lưu thông trong hải phận quốc tế, phù hợp với Luật biển Liên Hợp Quốc.

Vùng đặc quyền kinh tế không thuộc hải phận mà quốc gia có quyền khai thác kinh tế có chủ quyền quốc gia.

Chủ quyền (sovereignty) chỉ được xác định trong vùng lãnh hải (territorial sea) – theo Điều 2. Tuy nhiên, ngay cả trong vùng lãnh hải thuộc chủ quyển của nước sở hữu, Điều 17, 18 và 19 cũng vẫn cho phép tầu bè và máy bay nước ngoài có quyền “đi lại không gây hại” (innocent passage), là đi hoặc bay ngang qua, liên tục, nhanh chóng, không được đậu lại trừ trường hợp lâm nạn trong vùng lãnh hải (12 hải lý) của nước khác mà không cần xin phép, miễn là không ảnh hưởng đến an ninh và môi trường nước sở hữu lãnh hải.

Quyền tự do đi lại trong vùng đặc quyền kinh tất nhiên (tức là vùng mà nước có quyền có chủ quyền đối với việc khai thác lợi ích kinh tế từ vùng) không được bàn tới. Khi không có điều khoản nào trao quyền hạn chế đi lại cho nước có quyền khai thác kinh tế, như điều khoản cấm "việc đi lại không gây hại" áp dụng đối với lãnh hải, thì điều này có nghĩa là quyền tự do đi lại ở đây giống như trên biển khơi.

Tính chất tranh chấp ở biển Đông Nam Á

Những tranh chấp hiện nay ở biển Đông Nam Á đã nói lên được những điểm sau:

- Tranh chấp mang tính quốc tế, đa phương hoàn toàn không mang tính song phương giữa Trung Quốc với từng nước Đông Nam Á, hay với Mỹ và do đó chỉ có thể giải quyết trên cơ sở đa phương phù hợp với luật pháp quốc tế.

- Việc giải quyết hòn đá nào là đảo, và nếu là đảo thì thuộc chủ quyền nước nào trong nhiều nước tranh chấp phải vừa dựa trên việc diễn giải Luật Biển, vừa dựa trên chứng cớ lịch sử, thủ đắc mang tính lịch sử, vượt khỏi sự thủ đắc bằng bạo lực. Đây cũng không thể là vấn đề song phương.

- Quốc hội Philippines đã tuyên bố vùng chủ quyền trên biển Đông Nam Á sau khi tố cáo chính quyền bị Trung Quốc o ép và mua chuộc. Họ cũng tuyên bố sẵn sàng thương thảo đa phương.

- Cho đến nay việc chiếm đóng bằng bạo lực chỉ có một quốc gia đã bằng mọi cách thực hiệc, đó là Trung Quốc, chứ không phải từ một nước nào khác. Và hành động chiếm đóng xảy ra trong vùng biển Đông Nam Á do đó có ảnh hưởng thiết than đối với các nước Đông Nam Á. Điều này đòi hỏi các nước Đông Nam Á đoàn kết lại, tiến tới cùng quan điểm, trong việc thương thảo với Trung Quốc. Còn Trung Quốc cho đến nay vẫn tuyên bố sẽ chỉ thương thảo song phương với từng nước Đông Nam Á.

Ảnh: Blog Hồ Trung Nghĩa.

- Quyền tự do đi lại và bay trên hải phận quốc tế theo Luật biển Liên Hợp Quốc cần được bảo vệ. Quan điểm bảo vệ này là khước từ chấp nhận việc Trung Quốc có chủ quyền trên toàn bộ biển Đông Nam Á. Bảo vệ quyền thông thương cũng là bảo vệ an ninh cho toàn khu vực.

Mỹ và Việt: tìm cái “đồng” vì sự ổn định của Đông Nam Á

Nếu không lầm, hiện nay lợi ích của Mỹ và Việt Nam ngày càng gần nhau trong việc giải quyết tranh chấp biển Đông Nam Á: ít nhất ở ba điểm: (1) tự do lưu thông trên hải phận quốc tế, (2) chống lại các hành động bạo lực nhằm xác định chủ quyền ở biển Đông Nam Á và (3) cổ vũ cho việc dùng thương thảo hòa bình, đa phương để giải quyết tranh chấp.

Đồng quan điểm này trước đây không có. Ít nhất cho đến khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1989, Mỹ và Trung Quốc đã cấu kết với nhau trong Thỏa thuận Thượng Hải vào năm 1972 vừa để giải quyết chiến tranh Việt Nam vừa để chống Liên Xô, hoàn toàn bất lợi cho chủ quyền của Việt Nam. Chính vì thế Mỹ đã im tiếng khi Trung Quốc chiếm Hoàng Sa từ Việt Nam Cộng hòa năm 1974 và chiếm một số đảo ở Trường Sa năm 1988.

Chỉ sau khi Liên Xô sụp đổ và chỉ khi Trung Quốc tiến chiếm Mischief Reef trong tay Philippines vào năm 1995 thì Mỹ mới ngã ngửa về chủ nghĩa bành trướng ở biển Đông Nam Á của Trung Quốc và từ đó mới xác định ba quan điểm nêu ở trên, dù rằng Mỹ tuyên bố không có quan điểm về đúng sai trong tranh chấp lãnh thổ giữa các nước ở biển Đông Nam Á.

Chính quyền Việt Nam vẫn có thể nghi ngờ Mỹ có ý đồ diễn biến hòa bình; ngược lại Mỹ cho rằng họ chỉ lên tiếng bảo vệ nhân quyền vì đây là trách nhiệm của họ, phù hợp với Tuyên bố về Nhân quyền của Liên Hợp Quốc. Đây là điểm bất đồng ta có thể hiểu được, và lúc nào đó có thể tiến tới thỏa thuận về phương cách xử lý mà hai bên có thể đồng ý.

Tuy nhiên, vì lợi ích lâu dài mãi mãi của đất nước, Việt Nam nên cùng với các nước Đông Nam Á và Mỹ, phát huy ba quan điểm liên quan đến tự do lưu thông ở biển Đông Nam Á, chống lại việc dùng bạo lực xác định chủ quyền, và cổ vũ dùng thương thảo hòa bình đa phương để giải quyết tranh chấp. Không những thế, cần thành lập cơ chế hợp tác giữa ASEAN và Mỹ để phát huy, cổ vũ cho chiến lược trên.

  • Ts. Vũ Quang Việt (nguyên chuyên gia cao cấp thống kê Liên Hợp Quốc)

Ghi chú: Bạn đọc có thể đọc những ghi chú về nguồn thông tin trong bài viết của cùng tác giả trên Đi tìm một giải pháp hoà bình hợp công lý cho Biển Đông Nam Á, Thời Đại Mới số 11 năm 2007.

VN phản đối hành động của TQ. Philippines ở Hoàng Sa, Trường Sa

Trích VOA News

13/03/2009

Việt Nam đã phản đối hành động gần đây của Trung Quốc và Philippines đòi khẳng định chủ quyền ở hai quần đảo đang gây tranh cãi là Hoàng Sa và Trường Sa.

Truong Sa and Hoang Sa map

Bản tin ngày hôm nay của DPA trích thuật nguồn tin của báo chí Việt Nam cho hay Trung Quốc gần đây loan báo họ sẽ cho phép một công ty du lịch khai thác các chuyến du lịch tới một hòn đảo thuộc quần đảo Trường Sa mà Việt Nam gọi là đảo Phú Lâm.

Lên tiếng về hành động này, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, ông Lê Dũng nói rằng hành động này vi phạm nghiêm trọng chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam và làm tổn hại đến các cuộc đàm phán song phương nhằm tìm kiếm một giải pháp hợp lý cho các vấn đề trên biển.

Bản tin của Tân Hoa Xã cũng trích lời ông Lê Dũng nói thêm rằng Việt Nam vô cùng quan ngại và phản đối mạnh mẽ kế hoạch của chính phủ Trung Quốc cho phép mở tuyến du lịch tới hòn đảo này.

Cũng liên quan đến hai quần đảo này thì hôm 10 tháng Ba, Tổng thống Philippines, bà Gloria Arroyo đã ký một đạo luật công nhận Trường Sa là một phần lãnh thổ của Philippines.

Hành động này cũng đã bị Việt Nam phản đối. DPA trích lời ông Lê Dũng nói rằng Philippines nên tránh những hành động có thể ảnh hưởng đến hoà bình và ổn định trong khu vực và mối quan hệ đang phát triển tốt đẹp giữa hai nước.

Việt Nam cũng phản đối chuyến thăm Đảo Đá Hoa Lâu (Swallow Reef) thuộc quần đảo Trường Sa của Thủ tướng Malaysia Abdullah Ahmad Badawi vào ngày 5 tháng Ba.

Cả Việt Nam, Đài Loan, Trung Quốc, Philippines, Malaysia và Brunei đều tuyên bố tất cả hay một phần quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa thuộc chủ quyền của mình, và ngoại trừ Brunei, tất cả các nước này đều có sự hiện diện quân sự ở một hay nhiều đảo nhỏ thuộc hai quần đảo này.

Người ta tin là vùng biển xung quanh hai quần đảo này có trữ lượng dầu lớn cũng như tiềm năng đánh bắt hải sản.

Trừ Đài loan, tất cả những nước tuyên bố chủ quyền tại Trường Sa đã ký một Tuyên bố về cách Ứng xử của Các bên ở Biển Đông vào năm 2002.

Trong tuyên bố này, các bên cam kết giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng, và cho phép tàu bè được qua lại tự do.

RSF: Việt Nam là một trong 12 quốc gia thù địch với internet

Trích Người Việt Online



medium_VN_130209_internet.jpg


Hình bên: Nhà báo tự do Nguyễn Văn Hải (blogger “Ðiếu Cày”) bị công an CSVN bắt giữ khi tham gia biểu tình chống Trung Quốc xâm phạm chủ quyền lãnh thổ ngày 23 tháng 12 năm 2007.

Paris (NV) - Tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới (RSF) có trụ sở ở Paris, Pháp vừa công bố một phúc trình, trong đó, Việt Nam được xếp vào nhóm 12 quốc gia thù địch của Internet trên thế giới.

Mười hai quốc gia kể trên (được xếp theo thứ tự bảng chữ cái) gồm có: Burma, China, Cuba, Egypt, Iran, North Korea, Saudi Arabia, Syria, Tunisia, Turkmenistan, Uzbekistan và Vietnam.

Trước đó, trong bản xếp hạng hàng năm về tự do báo chí trên thế giới cũng của RSF, Việt Nam đứng hạng 168/173 quốc gia được khảo sát. Nông Ðức Mạnh, tổng bí thư Ðảng CSVN từng bị RSF gọi là “dã thú sát hại báo chí”.

Tổ chức vận động cho tự do báo chí trên thế giới này nhận xét: “Tất cả những quốc gia đó nổi bật so với các quốc gia khác từ việc kiểm duyệt tất cả thông tin trên Internet và kết án những người bị coi là sử dụng Internet để gây rối”. RSF lên án chính quyền 12 quốc gia này đã biến Internet - kênh thông tin - thành kênh kiểm duyệt để cấm, cản dân chúng tiếp cận các thông tin trên Internet mà họ không muốn dân chúng biết.

Theo thống kê của RSF, trên thế giới hiện có ít nhất 70 người bất đồng chính kiến vì sử dụng Internet để thông tin và bày tỏ ý kiến mà bị cầm tù. Trung Quốc là quốc gia cầm tù nhiều người nhất (49 người), kế đó là Việt Nam.

RSP không liệt kê toàn bộ chi tiết mà họ thu thập được về những người viết blog (báo cá nhân trên Internet) bị sách nhiễu, khủng bố vì đã sử dụng Internet để thông tin và bày tỏ những ý kiến khác với chủ trương của chính quyền.

Tuy nhiên theo RSF, riêng trong năm 2007 đã có trên 2,600 trang web và trang blog trên Internet bị các chính quyền độc tài, quân phiệt hay cuồng tín đóng cửa hoặc ngăn chặn.

Tại Việt Nam, năm ngoái, vào ngày 10 tháng 9 năm 2008, nhà báo tự do Nguyễn Văn Hải (bút danh Hoàng Hải, blogger “Ðiếu Cày”) đã bị kết án 30 tháng tù về tội “trốn thuế” nhưng thực chất là do cổ võ tự do thông tin và kêu gọi chống Trung Quốc xâm phạm chủ quyền lãnh thổ.

Khi cho phép dân chúng sử dụng Internet hồi 1996, chính quyền CSVN đã dựng “tường lửa” để ngăn cản dân chúng truy cập những thông tin khác với lối tuyên truyền của chính quyền CSVN.

Ðến nay, với sự phát triển của xa lộ thông tin điện tử toàn cầu, khoảng 2 triệu người ở Việt Nam đã mở các trang báo cá nhân để thông tin, bày tỏ đủ loại ý kiến, khác với hệ thống tuyên truyền của chính quyền CSVN.

Những kênh thông tin tự do, nằm ngoài sự kiểm soát của chính quyền CSVN đã nhanh chóng trở thành một hệ thống truyền thông có tính đối lập và đe dọa sự tồn vong của chính quyền CSVN nên họ đã tìm nhiều cách để hạn chế sự phát triển của các kênh thông tin tự do này.

Hồi tháng hai năm nay, Ðỗ Quý Doãn, thứ trưởng Bộ Thông Tin Truyền Thông CSVN, tuyên bố: “Blogs là trang thông tin cá nhân. Nếu blogger dùng nó như một tờ báo thì đó là vi phạm pháp luật và sẽ bị trừng phạt”. Tuy hiến pháp CSVN minh định công dân có quyền tự do báo chí nhưng “Luật báo chí” thì không cho phép tư nhân hoạt động trong lĩnh vực truyền thông.

Luật Sư Việt Nam tiếp tục bị sách nhiễu

Văn phòng Luật của Luật sư Lê Trần Luật vẫn tiếp tục bị sách nhiễu. Những người Luật sư tại Việt Nam có lòng với những người dân oan đang là cái đích của nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam đánh phá. Không biết rằng cái Đảng Cộng Sản này phục vụ cho ai, chớ từ khi Hồ Chí Minh thành lập đến nay chỉ toàn là gây hại cho nước và cho dân mà thôi. Biết bao giờ cái đảng quái thai này mới bị tiêu diệt như những Đảng Cộng Sản Liên Xô và Đảng Cộng Sản ở các nước ĐôngÂu.