Translate

Wednesday, March 31, 2010

Tin tặc Việt Nam (Cộng Sản)

Mới đây, công ty Google, một đại công ty chuyên về search engine có trụ sở tại California, Hoa Kỳ sau khi rút lui khỏi Trung Cộng lại lên tiếng khuyến cáo về nạn tin tặc Việt Cộng (mặc dù chưa được tinh vi bằng Trung Cộng). Bên cạnh đó, hãng nhu liệu MCAfee cũng cùng đưa ra những khuyến cáo tương tự. McAfee sau một thời gian điều tra đã quyết đoán như trên. Cũng không có gì là ngạc nhiên cả! Trung Cộng và Việt Cộng là những nước trên thế giới còn sót lại sau khi chủ nghĩa Cộng Sản ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã cáo chung. Bây giờ chúng tìm mọi cách bóp nghẹt tự do dân chủ bởi lẽ nếu người dân được tự do vế mọi mặt và nhất là tự do về chính trị thì chắc chắn là chúng sẽ bị diệt vong như ở Nga và các nước Đông Âu. Và internet là phương tiện thông tin hiện đại nhất để nối kết và phổ biến thông tin nhanh chóng nhất hiện nay.
Bên cạnh đó, vấn đề ngư dân Việt Nam ra biển đánh cá luôn luôn bị Trung Cộng bắt giữ và đòi tiền chuộc mặc dù họ đang đánh cá trong hải phận Việt Nam. Đây là điều vô cùng đau lòng và nhức nhối cho những người ngư dân lam lũ vất vả để mưu sinh. Làm gì để bảo vệ ngư dân? Đây là câu hỏi quan thiết cần được nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam phải trả lời trước nhân dân Việt Nam nếu họ còn có dòng máu Việt chảy trong dòng huyết quản.

Tuesday, March 30, 2010

Lại chuyện khủng bố

Vào ngày 28 tháng 3năm 2010, tại thủ đô Mátxcơva của Cộng Hòa Liên bang Nga, bọn khủng bố đã cho hai người quyết tử đánh bom tại trạm xe điện ngầm làm nhiều người chết và bị thương. Đây thật sự là một cuộc tấn công khủng bố, tuy tầm mức có nhẹ hơn những vụ khủng bố trước đây. Vậy thì tổ chức nào đứng đàng sau vụ khủng bố này? Thật tế mà nói ở nước Nga tổ chức những người Hồi Giáo ly khai Chechnya từ lâu đã có những trận đụng độ cùng với chính quyền của nước Nga. Họ muốn ly khai và thành lập quốc gia riêng. Cuộc chiến trước đây đã xảy ra giữa người Nga và người Chechnya. Và họ đã dùng chiến thuật khủng bố để tấn công người Nga. Đây quả là chiến thuật tàn bạo và mất nhân tính.
Nói đến khủng bố, tôi lại liên tưởng đến Việt Cộng trước năm 1975. Lúc đó, chúng cũng dùng chiến thuật khủng bố, tấn công vô tội vạ vào chính quyền và nhân dân miền Nam. Pháo kích, đặt mìn, tung lựu đạn...là những thủ thuật tàn bạo và mất nhân tính của bè lũ khủng bố Việt Cộng. Sau ngày miền Nam hoàn toàn bị sụp đổ, một chiến dịch khủng bố khủng khiếp đã được chúng sử dụng để nhắm vào quân, dân, cán chính Việt Nam Cộng Hòa. Thật là một bè lũ man rợ và lưu manh.

Sunday, March 28, 2010

Hội thảo Biển Đông

Biển Đông hiện nay là vùng biển mà Trung Cộng muốn nuốt chửng. Chúng đã vẽ nên hình lưỡi bò hòng chiếm trọn vùng biển giàu tài nguyên của Tổ Quốc. Mới đây, tại Philadelphia đã có cuộc hội thảo tranh chấp biển Đông do Hoa Kỳ tổ chức với sự tham gia của Hoa Kỳ, Pháp, Canada và Việt Nam. Đây là một cuộc hội thảo mang tính quốc tế, đã vạch trần ra những toan tính tham lam, bá quyền của nhà cầm quyền Ttung Cộng. Đây cũng là cơ hội để nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam cung cấp cho thế giới những chứng cớ lịch sử về chủ quyền của mình tại Biển Đông và nhất là tại hai quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.

Wednesday, March 24, 2010

Phỏng vấn Giáo Sư Carlyle Thayer (Sau cuộc vận động ký tên yêu cầu Hội Địa Lý Quốc Gia Hoa Kỳ xóa bỏ tên China tại Hoàng Sa)

Trích NguoiViet Boston

ed7b44a2f16fa68cedb6223b43aac007Cũng trong ngày kết thúc chiến dịch ký Thư Yêu Cầu, Nhã Trân, trưởng ban báo chí của Quỹ Nguyễn Thái Học (NTHF), phỏng vấn một chuyên gia về khu vực Đông Nam Á, Giáo sư Carlyle A. Thayer, Giám đốc Diễn đàn Nghiên cứu quốc phòng Đại học New South Wales – Australia, theo dõi và quan tâm đến các vấn đề liên quan đến Việt Nam.

Nhã Trân: Xin được nghe quan điểm của GS trước sự kiện Hội Địa lý Quốc gia Hoa Kỳ (NGS) ghi quần đảo Hoàng Sa thuộc Trung Hoa trong một bản đồ mới đây của họ?

GS Thayer: NGS năm nay đã sai phạm khi ghi là quần đảo Hoàng Sa thuộc lãnh thổ Trung Hoa. Ít ra NGS nên chú thích rằng chủ quyền khu vực này đang trong tình trạng tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Hoa.

Nhã Trân: GS khẳng định việc ghi Hoàng Sa thuộc Trung Hoa là sai phạm. Có phải đó là vì quần đảo này thuộc chủ quyền của Việt Nam mãi cho đến khi bị Trung Hoa dành lấy sau lần xâm lược năm 1974?

GS Thayer: Đúng vậy. Quần đảo Hoàng Sa chia thành hai nhóm, nhóm đảo Amphrite ở phía bắc và nhóm đảo Crescent ở phía nam. Kể từ khi thời kỳ thuộc địa Pháp kết thúc ở Việt Nam, chính phủ miền Nam, sau này là chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, được chiếm lĩnh nhóm đảo Crescent. Tháng Giêng 1974, một năm sau khi Hiệp định Paris được ký kết, Hải quân Trung Hoa đã tấn công Hải quân VNCH và chiếm cứ phía nam Hoàng Sa.

Nhã Trân: Nói đến lịch sử của Hoàng Sa, theo chúng tôi được biết thì khi đó phía chính phủ miền Nam Việt Nam đã mạnh mẽ phản đối hành vi xâm lược của Trung Hoa ?

GS Thayer: Khi Trung Hoa cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa năm 1974 chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã phản đối, tuy nhiên không thay đổi được tình thế là mấy. Hoa Kỳ khi ấy đã rút quân khỏi Việt Nam, và không có ý định hỗ trợ một cuộc chiến chống lực lượng quân đội Trung Hoa. Ngược lại với miền Nam, miền Bắc cộng sản khi đó không phản đối hành động của Trung Hoa. Bộ Ngoại Giao miền Bắc sau này viện lẽ rằng kẻ thù chính của họ là chủ nghĩa đế quốc của Mỹ, và họ không muốn Hoa Kỳ thiết lập căn cứ trên Hoàng Sa. Nói một cách khác là chính quyền Hà Nội đã không hề phản đối.
Nhã Trân : Là một chuyên gia về Đông Nam Á và về quốc phòng, GS nhận định ra sao về cơ sở mà Trung Hoa thời gian sau này dựa vào để tuyên bố chủ quyền của họ ở Hoàng Sa?

GS Thayer: Căn bản là Trung Hoa tuyên bố chủ quyền trên toàn thể Biển Đông, trong đó bao gồm Hoàng Sa, viện lý do họ là người khám phá vùng biển này. Chiếu theo luật quốc tế, khi hai xứ sở tranh cãi chủ quyền về lãnh thổ, trong trường hợp này là chủ quyền đối với các quần đảo trong vùng Biển Đông, lợi thế nghiêng về quốc gia chứng minh được sự sở hữu và quản trị.
Nhã Trân: Như GS vừa nói thì Việt Nam có thể ở vào thế bất lợi vì Hoàng Sa đã bị Trung Hoa chiếm đóng từ năm 1974 và chính thức lập đơn vị hành chính thời gian gần đây ?

GS Thayer: Trường hợp Việt Nam có thể được biện luận là chủ quyền [đối với Hoàng Sa] được chính quyền Pháp chuyển giao cho chính quyền Việt Nam lúc chế độ thuộc địa cáo chung vào năm 1954, vùng phía nam của Hoàng Sa được sở hữu và cai quản bởi Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa trong suốt hai thập niên liên tục.

Nhã Trân: Tranh chấp về chủ quyền Biển Đông, trong đó bao gồm Hoàng Sa, ngày càng căng thẳng. Các nước liên quan, tất nhiên kể cả Việt Nam, đang nỗ lực quốc tế hóa vấn đề, nhưng Trung Hoa một mực phản kháng. Ý kiến GS ra sao về khả năng Trung Hoa không từ bỏ ý định làm bá chủ Biển Đông, và Hoàng Sa nói riêng?

GS Thayer: Lịch sử đã chứng minh rõ rằng Trung Hoa xưa nay vừa cương quyết vừa hung hăng trong việc khẳng định chủ quyền đối với Biển Đông. Trước tháng Giêng 1974 Trung Hoa chỉ kiểm soát được phía bắc quần đảo Hoàng Sa. Kể từ khi đó Trung Hoa đã sử dụng lực lượng quân đội trong hai trường hợp để chiếm hữu các đảo này. Trường hợp đầu xảy ra tháng Giêng 1974 ở phía nam Hoàng sa. Trường hợp thứ nhì vào tháng Ba 1988 khi các chiến hạm của Trung Hoa tấn công lực lượng Hải quân cộng sản Việt Nam gần khu vực đá ngầm Johnston trong quần đảo Trường Sa. Trung Hoa sau đó tiếp tục chiếm thêm nhiều nơi trong vùng. Năm 1992, Trung Hoa lại gia tăng sự chiếm đóng của họ tại Trường Sa bằng cách cưỡng chiếm thêm nhiều vùng hơn. Năm 1995, trong một bành trướng mới, Trung Hoa chiếm vùng đá ngầm Mischief tại biên giới phía đông quần đảo Trường Sa, vùng mà trước kia Phillipines tuyên bố chủ quyền. Kế đó Trung Hoa xây dựng căn cứ quân sự trên Mischief. Cả Việt Nam lẫn Trung Hoa đều quân sự hóa những quần đảo và khu vực mà họ chiếm giữ. Việt Nam hiện đang ở vào vị trí không mấy lạc quan vì đòi chủ quyền mà không có phương cách để yểm trợ đòi hỏi này. Trung Hoa từ chối thảo luận về vấn đề Hoàng Sa, và điều đó làm hỏng mọi ý định đưa vấn đề này ra tòa án quốc tế. Cả hai chính quyền đang bất đồng về vấn đề chủ quyền phải cùng đồng ý để vấn đề được phân xử. Việt Nam hiện không có biện pháp ngoại giao hoặc quân đội để khẳng định, hỗ trợ cho việc đòi chủ quyền của mình. Lấy ví dụ, trong những năm cuối thập niên 1990 khi Khối Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã cùng Trung Hoa đàm phán về luật lệ hành xử cho vùng Biển Đông, Việt Nam muốn hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được bao gồm vào khu vực này thì Trung Hoa đã phản đối, và các nước láng giềng của VN đã nhượng bộ. Hoàng Sa [vì vậy] không được đề cập đến; luật hành xử trong khu vực Biển Đông sau đó phai nhạt, tan biến vào Bản Tuyên Ngôn năm 2002 về Luật của các chính quyền vùng Biển Đông.

Nhã Trân: Trở lại chuyện Hội Địa lý Quốc gia Hoa Kỳ sai phạm trong phán đoán của họ, GS có nghĩ sửa sai là điều cần thực hiện ?

GS Thayer: Hội Địa lý Quốc gia Hoa Kỳ lẽ ra có thể chính xác hơn nếu ghi rõ là các đảo thuộc phía nam của Hoàng Sa đang bị Trung Hoa chiếm đóng.

Nhã Trân: Phản ứng của người dân Việt trước sự kiện này có chính đáng, họ có quyền yêu cầu NGS đáp ứng yêu cầu đòi sửa lại chú thích về quần đảo Hoàng Sa để duy trì sự thật và công lý ?

GS Thayer: Có thể hiểu được sự phẫn nộ của những người Việt hải ngoại yêu nước trước sự sai lạc trong phán đoán của Hội Địa lý Quốc gia Hoa Kỳ. Sự sai sót, lầm lẫn này nếu được để yên có thể trở thành một thí dụ cho thấy sự đồng ý [của người Việt] đối với sự xâm lược của Trung Hoa. Người Việt hải ngoại phải tiếp tục áp lực, nêu quan điểm bằng cách không cho phép kỷ niệm cuộc xâm lăng của Trung Hoa hồi tháng Giêng 1974 trôi qua trong câm lặng. Họ cũng có thể nêu vấn đề này lên với các đại diện quốc hội, các định chế quốc tế thẩm quyền, và nhà cầm quyền Hà Nội.

Nhã Trân: Là một người nghiên cứu chính trị và quan tâm đến tình hình Việt Nam xưa nay, GS có điều gì muốn nhắn nhủ người dân và chính quyền Việt Nam ?

GS Thayer: Luật quốc tế đứng về phía những quốc gia có cơ sở trong việc tuyên bố chủ quyền. Sự yên lặng của Việt Nam có thể phương hại đến việc khẳng định chủ quyền của mình. Ngạn ngữ Anh có câu “sự sở hữu là chín phần mười của luật pháp.” Để ngăn ngừa điều này, trong trường hợp của Hoàng Sa, Viêt Nam phải tiếp tục thúc đẩy việc khẳng định chủ quyền của mình, phải phản đối tất cả mọi hành động mà Bắc Kinh sử dụng để xác nhận, khẳng định chủ quyền của họ. Thất bại trong việc duy trì vấn đề này sẽ đưa đến kết quả là Việt Nam đã chối bỏ chủ quyền của đất nước mình.

Nhã Trân: Cám ơn GS đã dành cho Nguyễn Thái Học Foundation cuộc phỏng vấn đặc biệt này.

Monday, March 22, 2010

Hữu Loan & Hoa sim (tự truyện)

Nhà Thơ Hữu Loan

“Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh...”


Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ duyên được cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người, nhờ ông mà năm 1938 ‒ lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi ‒ tôi chơi ngông vác lều chõng ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo tự học cũng có thể đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi chẳng có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài Pháp thời đó rất khó khăn. Số người đỗ trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5, 6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những cậu khóa ấy, trong số có Nguyễn Đình Thi, Hồ Trọng Gin, Trịnh Văn Xuân, Đỗ Thiện và tôi... (theo Lê Thọ Bình, báo Pháp Luật số Xuân Giáp Thân)

Với mảnh bằng tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà Tham Kỳ chú ý, vời về nhà dạy kèm cho hai đứa con nhỏ. Tên thật của bà Tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất, bà là vợ của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, bà Tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt đến (theo Lê Thọ Bình, báo đã dẫn).

Bà Tham Kỳ là một người hiền lành tốt bụng, đối xử với tôi rất đàng hoàng tử tế, coi tôi chẳng khác người nhà. Nhớ lại ngày đầu tiên khoác áo gia sư, bà gọi mãi, đứa con gái ‒ lúc đó mới 8 tuổi ‒ mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay miệng lí nhí: “Em chào thầy ạ!” Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh ở trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đó nhưng ít nói và mỗi lần mở miệng là cứ y như một “bà cụ non”. Đặc biệt em chăm sóc tôi hàng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng ướt em vừa hái ở vườn; những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà đem ra giếng giặt...

Có lần tôi kể chuyện “bà cụ non” ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em dỗi! Suốt một tuần liền, em nằm lì ở buồng trong, không chịu học hành... Một hôm bà Tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện cho em nghe; rồi tôi đọc thơ... Trưa hôm ấy, em ngồi dậy, ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: “Mới ốm dậy, còn yếu lắm, không đi được đâu!” Em không chịu, nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà Tham Kỳ đưa em lên núi chơi...

Xe kéo chạy chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc con, tôi đuổi theo muốn đứt hơi! Lên tới đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em. Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời. Không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:

‒ Thầy có thích ăn sim không?

Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên, đi xuống sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ... Khi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen nhánh, chín mọng.

‒ Thầy ăn đi!

Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng và trầm trồ:

‒ Ngọt quá!

Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật chưa bao giờ tôi được ăn những quả sim ngọt đến thế!

Cứ thế, chúng tôi ăn hết quả này đến quả khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi cũng đỏ tím, hai bên má thì... tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!

Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà Tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi... Lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng, em vẫn đứng đó, nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi... Tôi quay đầu nhìn lại... Em vẫn đứng yên đó...Tôi lại đi và nhìn lại cho tới khi không còn nhìn thấy em nữa...

Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi có nhận được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 đã có nhiều chàng trai đến ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ...

Chín năm sau, tôi trở lại nhà... Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn là cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp...

Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không “môn đăng hộ đối” một chút nào. Mãi sau mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm “soạn kịch bản”.

Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, “không đòi may áo mới trong ngày hợp hôn”, bảo rằng là: “Yêu nhau, thương nhau cốt cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả”. Tôi cao ráo, học giỏi, làm thơ hay lại... đẹp giai nên em thường gọi đùa là ông chồng độc đáo.

Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết!

Hai tuần phép của tôi trôi đi thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ đây em không còn là cô bé Ninh nữa mà đã là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, tôi lại quay đầu nhìn lại... Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ cảm thấy một nỗi buồn man mác thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.

Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồng (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lấy tấm áo bị nước cuốn đi nên trượt chân té xuống sông chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em đi vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại cho tôi nỗi đau không gì có thể bù đắp nổi! Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.

Nỗi đau ấy tôi phải giấu kín trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn... Dường như càng kìm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm tư gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong tôi được dịp bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng. Hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi, chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra:

Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội

Những em nàng có em chưa biết nói

Khi tóc nàng đang xanh...

...Tôi về không gặp nàng...




Thơ: Hữu Loan; Phổ nhạc: Phạm Duy; Trình bày: Elvis Phương

Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại nhà một người bạn ở Thanh Hóa. Anh bạn này đã chép lại và chuyền tay nhau suốt những năm chiến tranh. Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim.

Đến đây, chắc bạn đọc đã biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2‒4‒1916, hiện tại đang “ở nhà trông vườn” ở làng Nguyên Hoàn ‒ nơi tôi gọi là chỗ “quê đẻ của tôi đấy” thuộc Xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa.

Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi mới viết nổi những câu chiều hành quân/ qua những đồi hoa sim /những đồi hoa sim/ những đồi hoa sim dài trong chiều không hết /màu tím hoa sim /tím chiều hoang biền biệt và chiều hoang tím có chiều hoang biết/ chiều hoang tím tím thêm màu da diết.

Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội; từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi “hay cãi, thích chống đối, không thể làm những gì trái với suy nghĩ của tôi". “Bọn nó” nhiếc móc, chê tôi ủy mị, hoạnh họe tôi đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Tôi chẳng cần, mặc kệ chúng! Tôi thương, tôi nhớ Hoa Sim của tôi quá rồi! Với lại, tôi cũng đã chán ngấy cái mặt nạ yêu nước của “bọn nó” rồi!

Tôi về quê chúng chẳng buông tha, theo dõi quản thúc, thường xuyên kiếm chuyện gây khó dễ tôi cũng chẳng cần biết! Sau bao nhiêu năm trời ngậm cay nuốt đắng, tôi đã được dịp phơi bày tâm sự trong hai kỳ phỏng vấn của Hương Ly, phóng viên BBC tiếng Việt phát thanh trong hai ngày 5 và 12‒10‒2002. Theo tôi thì tình hình chung của đất nước bây giờ là thằng nào cũng lợi dụng trèo đầu cỡi cổ thằng dân chứ có cái gì đâu... Sau phần đầu nói về nguồn gốc của Màu Tím Hoa Sim và những hệ lụy của bài thơ này, trong phần II tôi đã nói về cuộc sống cơ hàn và những âm mưu ám sát, chế ngự của đảng đối với tôi và gia đình tôi từ năm 1956. Dù gian khổ và chết hụt nhiều lần, tôi nhất định không chịu quỵ lụỵ. Hồi ấy, ra làm ở ngoài Trung Ương thì bắt phải theo cộng sản nên tôi bỏ tôi về. Tôi bỏ về nó không cho về... Nó làm tôi tam tình, tứ tội, làm đủ cách đễ thủ tiêu nhưng mà tôi vẫn tin là tôi có sự che chở của Trời ‒ Phật cho nên nó không thủ tiêu nổi, bao nhiêu lần đầu độc không xong... Đó là cái thời 1955 ‒ 1956 khi phong trào Văn nghệ sĩ chống Ðảng bắt đầu bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, và đồng thời chống những Văn nghệ sĩ bồi bút đang tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca tụng Ðảng để kiếm chút cơm thừa canh cặn của chế độ. Làm thơ phải có cái tâm mà phải là cái tâm linh thật thiêng liêng thì mới có thơ hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì! Làm thơ lúc bấy giờ là phải làm về Ðảng, ca tụng Ðảng, ca tụng cộng sản, ca tụng cái buôn bán chiến tranh. Bởi vì cái đánh nhau là cái dễ kiếm chác lắm. Mà kiếm chác ở cái chiến tranh ấy thì khó kiểm tra lắm cho nên những cái bọn ăn bẩn ấy bao giờ cũng chủ trương chiến tranh, buôn bán chiến tranh. Mà tôi thì tôi thấy cái đấy là cái khổ dân nhất nên tôi chống hết sức. Lúc giờ người ta đang một tí là đề cao Hồ Chí Minh, hai tí là đề cao Hồ Chí Minh... trong khi tôi lại đề cao cái Tình Yêu. Tôi khóc người Vợ tử tế với mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó khóc như vậy, nó cho là khóc cái tình cảm riêng... Y như trong Thơ nói đấy: tôi lấy Vợ rồi đi Bộ đội, mới lấy nhau được có hơn tháng, ở nhà Bà ấy đi giặt rồi chết đuối ở sông... Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc. Bài thơ ấy lúc bấy giờ nó cho là phản động, làm thơ là phải làm về cộng sản, làm về bác Hồ chứ không được khóc cái đau riêng của mình... Cái đau khổ riêng của con người tại sao lại không được khóc!?

Bọn nó xúc phạm đến danh dự và tình cảm thiêng liêng của người Vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ Ðảng, bỏ Cơ quan về thẳng nhà để đi cày. Bọn ấy không cho bỏ, bắt tôi phải viết đơn xin. Tôi không xin... Tôi có cái tự do của tôi, cái chuyện bỏ Ðảng, tôi muốn bỏ là tôi bỏ không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày, đi bừa, đi thồ, đi đốn củi đưa về, đi xe đá để bán, bọn nó phá tôi đủ cách, bắt giữ xe đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ phía trước, có hai càng phìa sau thùng gỗ để đủn hay kéo đi. Xe cút kít nó cũng không cho, cấm không ai được bán bánh xe cho tôi nữa. Có lần tôi phải gánh bộ, gánh bằng vai tôi cũng cứ nhận. Tôi cứ gánh tôi làm, không bao giờ tôi chịu khuất phục. Thế mà chúng nó cũng theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an mật đi theo dõi, cho người theo hại tôi... Nhưng mà lúc nào cũng như có người cứu tôi! Có một cái lạ là chính Thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi! Lần đó tên mật vụ nói thật với tôi là được giao lệnh giết tôi nhưng nó là cái thằng rất yêu Quê hương, nhớ Quê nhà. Nó thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Ninh Bình của nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy không nỡ giết tôi.

Ngoài bài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mến chuộng. Sau năm 1956, khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ quá, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến nỗi không có đến cái chiếu mà nằm!

Chiếc chiếu

Có ai thấy một người cha

Từng buổi, từng buổi

Trước tủ kính cửa hàng Mậu dịch dòm như nổ mắt

Tì mũi dẹp như quả bóng xuống hơi

Thầm đọc đi đọc lại giá hàng từng thứ đồ chơi

Dù nhiều lần đã hạ giá

Trong óc nổi bòng bong từng mớ

Những cơm đến gạo đến quần đến áo

Ðôi chiếu nằm rách từ giữa rách ra

Tục ngữ nói rằng những chiếc nhà dột từ nóc trên dột xuống

Từng sáng mai nhìn gầm giường

Ðốt cói rụng đầy như chiếu rụng đốt xương

Gió thổi từ dưới thổi lên

Muỗi cũng đốt từ dưới đốt lên

Nhưng con đái dầm lại tiện

Ròng rã mười năm kháng chiến

Cầm vững hai tay

Một cái tình thần

Choảng nhau với súng với bom

Gian khổ còn ư ?

Bố con ta lại vung cái tinh thần như tráng sỹ vung gươm

Chong chóng không quay

Con vứt đi phụng phịu

Sáng kiến làm đồ chơi

Bố thì không thiếu

Bố lại lấy lá dứa vận cho con cái kèn

Bố thổi nó kêu lên tò he. Tò he

Con đắc trí giật kèn đi thổi khắp Ô Kim Mã

Tò he. Tò he

Như một thiên sứ Hài đồng

Xuống lệnh điềm tin

Tò he. Tò he

Nhớ truyện Ðông Chu

Sao đỏ, sao đen

Tò he. Tò he.


Cuộc đời đẩy đưa, định mệnh dắt tôi đến với một người phụ nữ khác, sống cùng tôi đến ngày hôm nay. Bà tên Phạm Thị Nhu, cũng là một người phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Bà vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố điền chủ của Việt Minh.


Nguồn: Nguyễn Đinh Toán và Thanh Nhàn
Nhớ lại, lúc đó, tôi còn là chính trị viên tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học, hiểu biết luân thường đạo lý, lại có tâm hồn nghệ sĩ, nên tôi cảm thấy chán nản quá và không còn kính trọng già Hồ cũng như chủ nghĩa cộng sản nữa. Tuy nhiên, tôi đã trót làm đảng viên được mấy năm rồi. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng! Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa tôi ở độ mười lăm cây số, có một gia đình địa chủ rất giầu, nắm trong tay gần năm trăm mẫu tư điền. Ông địa chủ giầu lòng nhân đạo, rất yêu nước thương người. Ông thấy bộ đội sư đoàn 301 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo tới chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là Trưởng Phòng Tuyên Huấn và Chính Trị nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông ta, đồng thời đề nghị lên Sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông. Riêng tôi rất quý mến và luôn luôn nhớ đến ông. Thế rồi một hôm tôi nghe tin gia đình ông ấy bị đấu tố. Hai vợ chồng bị đội đấu tố mang ra cho dân sỉ vả, nhục mạ, rồi chôn xuống đất để hở có cái đầu lên thôi. Xong, họ cho trâu kéo bừa qua lại hai cái đầu cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ xấu số chỉ còn có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội đấu tố đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo. Dã man hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm dân chúng cả việc lấy các con cái của địa chủ làm vợ làm chồng. Biết chuyện thảm thương giáng xuống gia đình ông bà địa chủ mà tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái của họ sinh sống ra sao, vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé mỗi buổi chiều cứ lén lút đứng bên ngoài song cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Khi gặp nhau, cô bé ấy nói vì đi nghe tôi giảng Kiều nhiều hôm để trâu ăn lúa, nên bị bắt phạt...

Lúc gần tới nơi, may sao tôi gặp cô ta áo quần rách mướp, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom tìm lượm vài củ khoai mà dân bỏ sót nhét vào túi áo, rồi chùi vội một củ vào quần đưa lên miệng gặm. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi lại gần hỏi thăm và được cô ta kể lại rành rọt hôm cha mẹ cô bị đấu tố chết ra sao. Cô ta khóc mếu nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hàng ngày cô phải đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong cái miếu hoang; cô rất đói khổ lo lắng, không biết ngày mai còn sống hay sẽ chết vì đói khát! Tôi nghe mà lấy làm thương tâm quá, trong lòng vô cùng xúc động. Suy nghĩ rất nhiều, tôi quyết định đem cô ta về quê tôi, rồi bất chấp lệnh cấm, tôi đã lấy cô ta làm vợ. Rất may là sự quyết định của tôi đã không nhầm. Khi xưa, quê tôi nghèo, nhà tôî cũng nghèo, tôi lại còn ở trong bộ đội nên không có tiền. Nhưng hai vợ chồng cố gắng chịu đựng đùm bọc nhau bữa đói bữa no... Cho đến ngày nay, bà ấy đã cho tôi 10 người con ngoan, 6 trai, 4 gái và cháu nội cháu ngoại hơn 30 đứa!


Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày hốt đá đi bán, túi dắt theo vài quyển sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ, thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi cởi mở, tôi được tụi nó ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm.


Năm 1988, tôi “tái xuất” giang hồ sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nhà đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do Hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí ‒ xuất bản và đổi mới thực sự.


Dọc đường đất nước trên chuyến đi, tôi đã đọc cho công chúng nghe trong những lần gặp gỡ, bài thơ dài mới nhất tên là “Chuyện tôi về”, một loại bút ký thơ kể về thời gian “Ba mươi năm không phải chuyện / Một sớm một chiều/ Một ngày tù đã dài như thế kỷ / Ấy là tù giữa chợ...” Trong 30 năm đó, kể từ ngày có vụ án Nhân Văn Giai Phẩm, và 17 năm sau đó nữa, chẳng có ai dám viết... Cũng trong dịp này, tôi được may mắn quen biết người bạn trẻ yêu nước, thường viết lách dưới bút hiệu Tiêu Dao Bảo Cự. Mến phục nhà trí thức đa tài đầy nhiệt huyết nầy, tôi đã chép tặng bài thơ Chuyện Di Tề với những câu như sau:



Đường vào nhà thi sĩ Hữu Loan
Nguồn: Nguyễn Đinh Toán và Thanh Nhàn

“... Tôi là cây

gỗ

vuông

chành

chạnh

suốt đời

đã làm thất bại

mọi âm mưu

đẽo tròn

để muốn tùy tiện

lăn long lóc thế nào

thì long lóc

Chân

tính

đấy

hỡi Rìu, Bào

Phó‒Mộc”


Lần đó, chép xong mấy câu thơ, tôi đã chỉ tay vào trang giấy nói: “Anh thấy đó chữ Rìu, Bào và Phó‒Mộc viết hoa. Anh biết tôi muốn ám chỉ ai rồi.” Anh bạn trẻ gật đầu tỏ vẻ lĩnh hội!


Chuyện này sau đó tôi quên tịt, nhưng hẳn là đã để lại trong tâm tư anh ta khá nhiều ấn tượng, bằng chứng là 17 năm sau, anh bạn trẻ (lúc này 60 tuổi, và tôi cũng đã 90!) lần mò từ Sài Gòn đến tận nhà thăm tôi! Mặc dù đang cảm nặng, tôi cũng thu gom được chút lực tàn để hầu chuyện cùng anh, ăn chung với anh một bữa cơm trưa thanh đạm gọi là đãi khách từ xa tới! Anh bạn trẻ nói chuyện thật vui, hỏi nhiều thứ tôi không còn nhớ nổi, nhất là những chuyện xảy ra trong chuyến xuyên Việt năm 1988! Nhưng những sự việc trước đó thì tôi nhớ như in, nhất là vào cái thời chúng nó trù dập Nhân Văn Giai Phẩm. Anh bạn trẻ xin phép hút thuốc lá, tôi không cho; anh bảo cái gì anh cũng bỏ được, trừ cái tật nghiện thuốc lá! Hừm, có gì mà không bỏ được?! Cái gì có hại là phải bỏ, cộng sản nó ghê gớm đến thế mà tôi còn bỏ được, nói chi thuốc lá?! Nể mặt tôi nên anh giữ im lặng, nhưng tôi thấy rõ ánh bất bình trong mắt anh...


Anh bảo ra về sẽ viết một bài ký sự ghi lại buổi gặp gỡ đó, và anh đã giữ đúng lời hứa. Lớp trẻ ngày nay thật tài ba! (xem phần Phụ Lục nơi cuối bài)


Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, Công ty Vitek VTB đột nhiên ra đề nghị mua bản quyền bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu, trừ thuế còn 90, chia “lộc” cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu, phòng ốm đau lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan.


Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy tập thơ khác, nhưng tôi từ chối, thơ tôi là
m ra không phải để bán!

Nhà thơ Hữu Loan và CCRĐ

Trích DCV Online
Minh Võgiới thiệu


Cải Cách Ruộng Đất đã giết bố mẹ vợ thứ hai của nhà thơ Hữu Loan như thế nào




thơ tôi làm ra không phải để bán!
Nguồn: OntheNet

Nhân đọc bản tin của DCVOnline về cái chết mới đây của nhà thơ Hữu Loan ở tuổi 95, chúng tôi xin phép nhà thơ quá cố chép lại để cống hiến bạn đọc bài tự truyện tuyệt hay và vô cùng cảm động của ông.

Ông viết bài này vào lúc đã chín chục tuổi, nghĩa là sau khi đã đi gần hết con đường đầy chông gai, gian khổ của một kiếp người bất hạnh sinh ra vào thời đại Hồ Chí Minh. Nhưng nhờ đã tu trọn kiếp trước, nên những đau thương triền miên ở kiếp này đã đã hóa thành những những viên ngọc qúy trang điểm cho công trình văn học sáng chói của ông, như một nhà thơ Pháp đã viết, Những kẻ tuyệt vọng nhất là những bài ca diễm tuyệt nhất. Và tôi từng biết những kiệt tác bất hủ lại chỉ là những tiếng khóc nức nở nghẹn ngào. Một triết gia khác lại nói, Chỉ có môt tâm hồn vĩ đại mới mang nổi một nỗi đau khổ to lớn.

Trong tác phẩm đẹp như thơ này tác giả đã bằng mấy nét chấm phá đưa độc giả từ một mối tình hồn nhiên, trong trắng của một thiếu nữ con nhà giầu, tám tuổi đầu đã biết kín đáo chăm sóc ông thầy học giỏi đẹp trai mà bà mẹ đã chọn cho mình, để rồi sau chín năm xa cách, khi em đã thành một thiếu nữ xinh đẹp ở tuổi 17, mối tình đã dần dần tiến xa hơn, tưởng rằng hai người sẽ suốt đời ở bên nhau. Nhưng tai nạn chết người đã đưa người chồng bạc phước vào cõi cô đơn buồn thảm.

Cho đên khi sấm chớp long trời lở đất của Cải Cách Ruộng Đất dìm cả miền Bắc vào biển máu, thì một mối tình như vũ bão thổi tới giữa đảng viên, chính ủy tiểu đoàn với con gái địa chủ đem lại cho nhà thơ một cuộc đời mới đầy an ủi và tình yêu thắm thiết. Giông bão hận thù giai cấp đã tiêu tan trong lòng ông. Chỉ còn sự cảm thương trìu mến giữa hai tâm hồn, hai mảnh đời rách nát quyết tâm quyện vào nhau để tạo cho mình con đường mới với con đàn cháu đống (mười người con và hơn ba chục cháu nội ngọai).

Chúng ta hãy chiêm ngưỡng hai mối tình tuyệt đẹp của môt người nghệ sĩ tài hoa đã dám đem cuộc sống và hạnh phúc của riêng mình đánh đổi lấy mối tình chung thủy phi giai cấp của một cô gái khốn khổ nhất trên đời.

Xin bạn nào đã đọc truyện này rồi miễn thứ.


© DCVOnline
Áo anh sứt chỉ đường tà (Thơ: Hữu Loan, Nhạc: Phạm Duy, Trình bay: Elvis Phương





Sunday, March 21, 2010

Những câu hỏi xin được người cộng sản Việt Nam trả lời

Trích Bauxite VietNam

Hoàng Hưng

Theo thông báo của ĐCSVN thì từ nay đến cuối năm 2010, Đảng sẽ đưa ra dự thảo nghị quyết Đại hội 11 để lấy ý kiến đóng góp lần lượt của các cơ quan các cấp và cuối cùng là toàn dân. Dù muốn hay không, tương lai của đất nước và dân tộc trong điều kiện hiện nay và một thời gian nữa (lâu hay mau chưa rõ) vẫn được quyết định chủ yếu ở sự cầm chịch của ĐCS; và Đại hội lần thứ 11 sắp tới có ý nghĩa mấu chốt đối với bước ngoặt lớn của vận mệnh quốc gia: VN hoặc sẽ trở nên phụ thuộc hoàn toàn vào siêu cường phía Bắc, lợi ích dân tộc bị hy sinh trước sức ép của ngoại bang, bị nguy hại vì rập khuôn đường lối độc tài của họ để phát triển không bền vững; hoặc sẽ giữ được độc lập tự cường và phát triển bền vững bằng con đường độc lập, dân chủ hóa, phát huy được sức mạnh của toàn dân, tranh thủ được sự hỗ trợ của thế giới văn minh.

Tôi là một công dân Việt Nam ngoài đảng CS, đã sống và làm việc gần 60 năm dưới sự lãnh đạo của ĐCS, đã bằng lời nói và ngòi bút góp chút phần vào những thành tích cũng như sai lầm của Đảng, cũng đã từng là nạn nhân của sự độc tài thiếu sáng suốt của Đảng. Hôm nay, sắp vào tuổi “xưa nay hiếm”, trong phạm vi những từng trải và hiểu biết của riêng mình, cố gắng giữ một cái nhìn công bằng, không thiên kiến, tôi muốn chân thành đối thoại với Đảng về những quyết định của Đảng, những quyết định sẽ chi phối cuộc sống của bản thân tôi, con cháu tôi cũng như tất cả đồng bào tôi. Nhưng trước tiên, để tôi hiểu thật đúng, thật rõ về ĐCSVN của ngày hôm nay, tôi đề nghị những người Cộng sản, bao gồm các nhà lãnh đạo, các nhà lý luận, cho đến đảng viên các cấp: hãy nghiêm túc, thẳng thắn, thật thà trả lời một số câu hỏi sau đây của tôi. Nếu câu trả lời của các vị khách quan, thuyết phục, tối thiểu là phù hợp với Hiến pháp và pháp luật hiện hành của Nhà nước Việt Nam, không né tránh sự thật, tôi xin nguyện sẽ là một trong những người kiên quyết ủng hộ sự độc quyền lãnh đạo của Đảng, chống lại mọi âm mưu xâm hại sự độc quyền ấy, để giữ vững sự ổn định và tiến lên của đất nước.
Tôi xin chia các câu hỏi thành từng cụm vấn đề:
I/ Về con đường phát triển của đất nước:

1/ Mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” mà Đảng đề ra có gì khác với mục tiêu phấn đấu của các thể chế hiện hành ở Mỹ, Pháp, Nhật, Đức, Hàn Quốc, Bắc Âu?
2/ “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” có gì khác với mô hình kinh tế của những nước theo đường lối dân chủ xã hội (social democracy), thị trường xã hội (social market) như Đức, Bắc Âu, nhà nước phúc lợi (welfare state) như Anh…?
3/Ý nghĩa, nội hàm của cụm từ “định hướng xã hội chủ nghĩa” là gì?
- Là phân phối công bằng sản phẩm xã hội, bênh vực kẻ yếu, người kém may mắn?
- Là tiến tới xóa bỏ tư hữu tư liệu sản xuất?
- Là tiến tới xóa bỏ bóc lột giá trị thặng dư?
- Là sự thống trị của bộ phận kinh tế sở hữu nhà nước trong đó có sự độc quyền về những ngành then chốt?
- Là độc quyền lãnh đạo của ĐCS?
4/ Nền độc lập dân tộc đang và sẽ bị đe doạ chủ yếu từ phương Bắc hay phương Tây?
5/ Giữa âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ độc quyền lãnh đạo của ĐCS với âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm thôn tính nước VN, cái nào nguy hiểm cho dân tộc hơn?
II/ Về bản chất của Đảng Cộng sản VN:
1/ Có bao nhiêu đảng viên CS hoặc vợ/chồng, con cái của họ là chủ cơ sở kinh tế tư nhân sử dụng người làm thuê?
2/ Có bao nhiêu đảng viên có tài sản trị giá từ 5 tỷ đồng trở lên, có thu nhập bình quân trong gia đình từ 50 triệu đồng/năm trở lên, có từ 1 người con du học ở các nước tư bản?
Trong số ấy có bao nhiêu là quan chức của Đảng và Nhà nước?
3/ Có bao nhiêu đảng viên là công nhân trực tiếp sản xuất?
4/ Có bao nhiêu đảng viên cho rằng học thuyết Mác-Lênin, chủ nghĩa cộng sản cho phép tích lũy tư hữu tư liệu sản xuất thay vì xóa bỏ nó?
5/ Có bao nhiêu đảng viên thực lòng tin rằng mình vào đảng là để phấn đấu cho lý tưởng cộng sản thành công trên đất nước này?

III/ Về sự độc quyền lãnh đạo của ĐCS:
1/ Độc quyền lãnh đạo của ĐCS có đồng nghĩa cả nước chỉ có 1 chính đảng duy nhất?
2/ Độc quyền lãnh đạo có đồng nghĩa 90% cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, 90% đại biểu Quốc hội phải là đảng viên CS?
3/ Có đồng nghĩa mọi cấp mọi ngành phải có 1 cơ quan của Đảng song song với bộ máy chính quyền?
4/ Có đồng nghĩa việc lớn việc nhỏ trong ba quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp) đều do các cấp ủy quyết định sẵn, cơ quan dân cử chỉ có việc biểu quyết thông qua và chính quyền chỉ làm nhiệm vụ chấp hành, cơ quan tư pháp chỉ làm công việc hợp thức hóa?
5/ Tại sao lại thay khẩu hiệu “Quân đội ta trung với nước, hiếu với dân…” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra thành “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân”?
6/ Tại sao lại tránh trớ việc “luật hóa” sự lãnh đạo của ĐCS, một việc rất cần thiết để tránh nguy cơ người thay mặt Đảng lạm quyền, đứng trên pháp luật, dẫm chân vào sự điều hành của chính quyền?
V/ Về lòng tin của nhân dân đối với đảng:

Đảng có dám làm một cuộc thăm dò rộng rãi dư luận nhân dân (nếu không là trưng cầu dân ý) một cách vô tư trung thực (không dùng mánh lới kiểm soát, khống chế) với những câu hỏi như sau:
1/ Có tán thành để ĐCS tiếp tục độc quyền lãnh đạo đất nước?
2/ Đảng độc quyền lãnh đạo nhưng nên đổi tên, thay từ Cộng sản bằng từ khác?
3/ Độc quyền lãnh đạo nhưng phải thay đổi tận căn bản cơ chế, phương pháp lãnh đạo, trước hết là thực hành dân chủ ngay trong nội bộ Đảng và thực sự tuân thủ nền pháp trị?
4/ Nên có hai Đảng với chiến lược khác nhau (tuy vẫn chung 1 mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”) thay nhau lãnh đạo theo sự lựa chọn định kỳ của nhân dân thông qua bầu cử?
5/ Nên có thêm vài đảng khác cùng với Đảng CS tham gia quản lý đất nước?
VI/ Về lòng tin của Đảng đối với nhân dân:

1/ Đảng có cho rằng trình độ dân trí, đặc biệt là giác ngộ chính trị, của nhân dân VN hiện nay thấp hơn nhân dân các nước Thái Lan, Indonesia, Philippin, Campuchia…?
2/ Đảng có cho rằng nhân dân dễ tin theo những luận điệu xuyên tạc, nói xấu đảng của các thế lực thù địch với đất nước?
3/ Đảng có tin rằng trong thời đại ngày nay, có thể dùng hệ thống tuyên truyền một chiều để làm cho dân tin vào những điều sai sự thật, ngược lại có thể ngăn chặn những thông tin nói lên sự thật nhưng không có lợi cho người cầm quyền?
4/ Đảng có tin rằng nếu công khai cho dân biết những công việc của đảng có ảnh hưởng lớn đến quyền lợi chung của nước của dân, như những tranh luận trong Đảng về đường lối phát triển đất nước, về nhân sự sẽ lãnh đạo bộ máy nhà nước; ngân quỹ của Đảng, tài sản của đảng viên cao và trung cấp, hoạt động kinh tài của Đảng, thì dân sẽ càng tin tưởng và yêu quý Đảng?
5/ Có thể thực sự thi hành tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, tự do biểu tình, tự do tín ngưỡng (không cần sự kiểm soát gắt gao của hệ thống phối hợp đảng-hành chính-công an) mà không sợ mất quyền lãnh đạo, ngược lại càng tăng uy tín của Đảng, vì Đảng tự tin mình luôn là chính nghĩa, và đại đa số nhân dân luôn tin tưởng vào Đảng và trung thành với Đảng?
Trên đây là những câu hỏi của một công dân trung bình, không đi vào lý luận về chính trị, triết học, nhưng rất thiết thực, cụ thể để hiểu thực chất của một chính đảng mà mình phải gửi gắm sinh mệnh, tương lai của bản thân và con cháu vào tay. Kính mong sớm được phúc đáp.
, 19/3/2010
HH, 68 tuổi, làm thơ, viết báo, dịch sách

Tuesday, March 16, 2010

Nhóm ‘Chính phủ VNCH’ muốn phục sinh Hiệp Ðịnh Paris

Trích Người Việt Online





medium_DP-100313-ChinhPhuVNCH 1.jpg

medium_DP-100313-ChinhPhuVNCH 2.jpg


Hình trên: Ký giả Nguyên Dzuy của Thời Luận đang đặt những câu hỏi với Chủ Tọa Ðoàn.

Hình dưới: Chủ Tọa Ðoàn cuộc họp báo của tổ chức Chính Phủ VNCH. Từ trái qua là cựu Thiếu Tướng Lý Tòng Bá, cựu Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chức, Luật Sư Lâm Chấn Thọ. Phía sau từ trái là cô Nguyễn Mai Thy (bị che khuất), ông Phạm Ðức Hậu và một cựu sĩ quan QLVNCH (bị che khuất).

Bài và hình: Nguyên Huy/Người Việt

FOUNTAIN VALLEY (NV) - “Ðây là một đòi hỏi hợp tình hợp lý. Nếu Hiệp Ðịnh Paris trước đây đã bị bỏ xó vì lý do chính trị thì nay Quân Dân VNCH phải đấu tranh phục sinh nó lại. Bởi vì Hiệp Ðịnh Paris vẫn còn giá trị và vô thời hạn. Thời điểm hiện nay đã quá chín mùi trong việc dùng mặt trận pháp lý và ngoại giao để tạo ra những áp lực cần thiết để xua đuổi bè lũ Cộng Sản Bắc Việt ra khỏi đất nước của Việt Nam Cộng Hòa mà không cần đến súng đạn và xương máu hy sinh”.

Ðó là lời phát biểu của cựu Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chức đại diện tổ chức Chính Phủ VNCH trong buổi họp báo tuyên bố về đường hướng đấu tranh giải phóng quê hương vào sáng hôm Thứ Bẩy vừa qua tại đài truyền hình VHN, Nam California. Buổi họp báo đã được đài VHN trực tiếp truyền hình đi khắp 50 tiểu bang Hoa Kỳ và Canada. Khoảng trên 50 đồng hương thuộc các giới tranh đấu ở hải ngoại và truyền thông báo chí Việt ngữ Nam California đã có mặt trong buổi họp báo này.

Chủ tọa trong cuộc họp báo gồm cựu Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chức, cựu Thiếu Tướng Lý Tòng Bá, Luật Sư Lâm Chấn Thọ. Bên cạnh có cô Nguyễn Mai Thy, ái nữ của cố Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn, ông Phạm Ðức Hậu và một cựu sĩ quan cấp Tá QLVNCH. Theo lời giới thiệu của ông Hồ Văn Sinh trong tổ chức VNCH Foundation thì đây là những thành phần trong Chính Phủ VNCH mà cố Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn, vị thủ tướng hợp pháp sau cùng của nền Ðệ II Cộng Hòa đã ủy nhiệm.

Cuộc họp báo có hai phần, một là sự trình bày về đường hướng đấu tranh giải phóng quê hương mà tổ chức Chính Phủ VNCH chủ trương và Chủ Tọa Ðoàn trả lời những câu hỏi của báo chí.

Ba vị trên chủ tọa đoàn là cựu Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chức, cựu Thiếu Tướng Lý Tòng Bá và Luật Sư Lâm Chấn Thọ đã lần lượt trình bày những lý do và khía cạnh pháp lý trong đường hướng đấu tranh này.

Cựu Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chức, người được các thành viên trong tổ chức Chính Phủ VNCH công cử thay thế cố Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn đã trình bày khá cặn kẽ về những lý do để chúng ta chọn đường hướng đấu tranh này.

Nói về nguyên nhân phải đấu tranh, cựu Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chức nhắc lại CSBV đã vi phạm hiệp định ngưng bắn Paris 27 Tháng Giêng năm 1973 và với sự hỗ trợ của khối Cộng Sản đã ngang nhiên xua quân xâm lấn miền Nam, tự ý thống nhất, thay đổi tên nước đặt nền thống trị bằng bạo lực, bằng lừa bịp thế giới và nay lại đang dâng hiến lãnh thổ lãnh hải cho Trung Cộng để đổi lấy quyền lực và quyền lợi cho cá nhân và phe nhóm của họ. Do đó, cựu Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chức nhấn mạnh: “Chúng tôi, những người còn lại trong Chính Phủ VNCH thề quyết tâm tranh đấu tiếp nối con đường mà cố Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn trước đây đã đề ra sau biến cố 30 Tháng Tư năm 1975 cho đến nay. Ðó là dựa trên văn bản của Hiệp Ðịnh Paris để vận động một Hội Nghị Quốc Tế về Việt Nam nhằm xét duyệt vấn đề tội ác xâm lăng và diệt chủng chống nhân loại của bè lũ Cộng Sản Bắc Việt”.

Trong phần phát biểu của mình cựu Thiếu Tướng Lý Tòng Bá, nguyên Tư Lệnh Sư Ðoàn 25 Bộ Binh đã chiến đấu bảo vệ Thủ Ðô Saigon đến giờ phút cuối cùng, bị Cộng Sản bắt giữ cải tạo hơn 10 năm trời đã trình bày tâm nguyện của mình với đất nước, dân tộc. Cựu thiếu tướng cho biết ngay sau khi đến được miền đất tự do, ông đã lao ngay vào các hoạt động tranh đấu cùng với các tổ chức Liên Minh Dân Chủ của Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy, với Tập Thể Chiến Sĩ VNCH, với VNCH Foundation... Cựu Thiếu Tướng Bá nhận định: “Quân sự chúng ta đã làm, chính trị chúng ta cũng đã nỗ lực và nay là về pháp lý. Tại sao chúng ta không trở về với Hiệp Ðịnh Paris đã được quốc tế thừa nhận. Luật pháp không có thời gian triệt tiêu. Ðây là nhiệm vụ của tất cả chúng ta phải làm cho bằng được”. Cựu Thiếu Tướng Bá cũng cho biết trong nhiều cuộc tiếp xúc, vận động thế giới ông đã được nhiều chính trị gia Pháp, Mỹ ủng hộ giải pháp trở lại duyệt xét Hiệp Ðịnh Paris về Việt Nam.

Về pháp lý, Luật Sư Lâm Chấn Thọ xác định vị trí pháp lý của Chính Phủ VNCH qua hành động nộp hồ sơ “Thềm Lục Ðịa VN” lên Liên Hiệp Quốc với tư cách một quốc gia và đã được ủy ban phụ trách thềm lục địa của LHQ thu nhận. Ngoài ra chiếu theo Hiến Pháp VNCH thì hành động trao quyền của Tổng Thống Trần Văn Hương cho Ðại Tướng Dương Văn Minh để ông ta đầu hàng Cộng Sản là vi hiến. Do đó chính phủ VNCH vẫn còn với thủ tướng là Nguyễn Bá Cẩn. Chính phủ ấy chỉ mất đất và nay ở hải ngoại vẫn tồn tại. Luật Sư Lâm Chấn Thọ cũng trình bày một số tài liệu phía Cộng Sản ghi nhận những nhân vật trong Chính Phủ VNCH đang có mặt hôm nay ở đây, sau 30 Tháng Tư năm 1975 còn hoạt động ở Thái Lan trong tư cách chính phủ VNCH. Ðó là tờ báo Xuân của công an thành phố Saigon năm 2002.

Chấm dứt phần trình bày của tổ chức Chính Phủ VNCH, các phóng viên báo chí của nhật báo Việt Báo, Saigon Times và Thời Luận đã đặt nhiều câu hỏi về tình trạng hồ sơ về Thềm Lục Ðịa do Chính Phủ VNCH nộp LHQ, về thành phần của Chính Phủ VNCH thế nào và chính phủ sẽ nói chuyện thế nào với Cộng Sản. Luật Sư Lâm Chấn Thọ đã thay mặt chủ tọa đoàn trả lời những câu hỏi.

Sau cùng trước khi chấm dứt cuộc họp báo, Chủ Tọa Ðoàn đã khẩn thiết kêu gọi đồng bào trong và ngoài nước cùng các giới truyền thông hải ngoại hãy hỗ trợ và tham gia tích cực vào đường hướng đấu tranh giải phóng quê hương này.

Monday, March 15, 2010

Một xã hội bạo lực

VietCatholic News (14 Mar 2010 09:59)
Một xã hội bạo lực

Dân tộc ta có truyền thống từ xa xưa là tương thân, tương ái, yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Có những trang sử, những câu truyện được lưu truyền để cho hậu thế lấy đó làm thước đo, bài học về giá trị yêu thương của người dân Việt.

Đặc biệt hơn, là những người phụ nữ trong gia đình, ngoài xã hội được đánh giá cao, trân trọng hơn cả với những đức tính liêng thiêng mà tạo hóa ban cho kết hợp với văn hóa, truyền thống được đúc rút từ cuộc sống thường ngày đã cho người phụ nữ Việt hội tụ đủ “Công, Dung, Ngôn, Hạnh”.

Tâm hồn người phụ nữ Việt Nói đến Người Phụ Nữ Việt là được nhìn thấy những vẻ đẹp tinh túy của tạo hóa, của thời gian, truyền thống văn hóa ẩn chứa trong họ. Đẹp là vậy, nhưng giờ đây, chúng ta phải thành thật mà nhìn nhận về một thế hệ, một thời cuộc, một xã hội đang bị mất đi những vẻ đẹp. Thay vào đó là sự lấn chiếm dần dần của bạo lực, mà ở đây chúng ta phải nói về bạo lực xảy ra đối với thế hệ trẻ, những cô gái đang độ tuổi học hỏi, dung nạp Nhân – Trí – Tín – Lễ – Nghĩa. Thật đau lòng!.

Bạo lực ở tuổi học làm người

Thời gian gần đây, tình trạng nữ sinh hành hung bạn học ngày càng xuất hiện nhiều. Trên các trang chia sẻ video trực tuyến xuất hiện nhiều video clip quay cảnh nữ sinh đánh hội đồng. Có nhóm thì dùng mũ bảo hiểm, nhóm lại dùng dày cao gót, nhóm thì nhảy bổ vào nhau cào cấu, xé áo… Bạo lực tuổi ô mai đang khiến cho xã hội lo lắng.

Một cảnh hành hung, đánh đập bạn Những cảnh bạo lực đó đang diễn ra mỗi ngày thường xuyên, liên tục hơn, xảy ra ở nhiều nơi, trong đó có các nữ sinh ở các trường học tại Thủ đô Hà Nội, nơi mà một nhóm người nào đó đang cố gắng tạo ra những hình ảnh đẹp cho nó phù hợp với cái không khí đón chào ngàn năm Thăng Long.

Bạo lực là một mặt song song trong cuộc sống, loài người đang cố gắng tìm nhiều cách để giảm thiểu và đẩy lùi nạn bạo lực. Xã hội nào cũng có, đất nước nào cũng không thể tránh khỏi được bạo lực. Nhưng nó xảy ra nhiều hay ít, xảy ra ở đâu, khi nào và với ai. Biết được như vậy, chúng ta có thể cảm nhận cái xã hội đó đang nằm trong tình trạng nào.

Ở Việt Nam, hàng ngày bạn thức dậy, điều bạn nghe đầu tiên là những vụ giết người, những vụ bạo loạn, cướp bóc, hiếp dâm trên các phương tiện truyền thông. Chỉ trong vòng 24 giờ thôi, chỉ thấy được một góc khuất nào đó thôi, nhưng ta nghe thông tin được loan tải về bạo lực là nhiều hơn hết.

Hiện tượng bạo lực học đường tràn lan là vấn đề hết sức lo ngại. Xem những video clip, thấy nữ học sinh đánh đập cùng những thủ đoạn còn hơn ”Hoạn Thư” và thái độ vô cảm của học sinh ngồi xem. Nhìn thấy vật mà giật mình lo cho sự mất an toàn và vô cảm của con người, của xã hội.

Chúng ta cần phải vào cuộc bằng mọi cách, dù sự việc xảy ra bạo lực trong học sinh là những hành động theo quán tính của tuổi mới lớn hoặc hơn thế nữa hay hiện tượng vô cảm của con người. Liệu chúng ta có tìm ra cái gốc của vấn đề, nó xuất phát từ đâu?

Nguyên nhân

Dù vẫn còn nhiều hạn chế do “một số con người tạo ra” nhưng chúng ta thấy, điều kiện xã hội đã khá lên nhiều, điều kiện sống và học tập được chú ý hơn. Nhưng học sinh lại đánh nhau nhiều như vậy?

Phải chăng là do gia đình?, đây là một nguyên nhân cộng hưởng. Trong Công Giáo rất coi trọng cái nền tảng của một gia đình để nuôi dưỡng và trưởng thành một con người “Gia đình là nền tảng của Giáo hội và xã hội”. Vậy các bậc phụ huynh đã làm tròn bổn phận, trách nhiệm và trái tim yêu thương với con cái chưa?.

Do nhà trường hay cách tổ chức xã hội?. Chúng ta luôn tôn trọng những nhà sư phạm, những con người đong đầy kiến thức cho các thế hệ. Từ đó mà có những câu văn, câu thơ về người thầy, người cô hết sức sâu đậm như em bé thì coi cô là mẹ, học cao lên chút nữa thì những bậc phụ huynh càng coi trọng cái chữ “muốn sang thì bắc cầu Kiều, muốn con hay chữ phải yêu lấy Thầy”. Có nghĩa là, người đời hết sức tôn trọng người thầy giáo.

Nhưng gần đây chúng ta lại biết đến những chuyện kinh tởm trong cái nghề dạy người như vụ Hiệu trưởng mua dâm học sinh và còn nhiều vụ chìm sâu trong bóng tối. Sự xuống cấp trầm trọng về mặt đạo đức của những nhà sư phạm khiến cho chúng ta phải canh cánh nỗi lắng lo trong lòng. Nhà trường, Bộ Giáo dục còn xứng đáng để nhận những tấm lòng trân trọng của người các bậc phụ huynh, học trò nữa không?

Theo mặt triết học thì con người giống như cái chai, lọ rỗng. Sinh ra là một con người chưa kiến thức, chưa hiểu biết. Theo dòng thời gian, được cha mẹ trong gia đình, các thầy, các cô ở trường, những vị giáo sư, tiến sĩ cứ đổ dần, đổ dần kiến thức vào cái chai, lọ đó. Tích tụ,cho đến khi đầy, thì nó sẽ bung ra, sẽ thi thố những tài năng, kiến thức đã được thu nạp. Tốt thì cho sản phẩm tốt, xấu thì cho sản phẩm xấu.

Vậy nhà trường và xã hội đã cho học sinh, sinh viên những bài học, kiến thức gì?. Giáo dục và cách tổ chức của một xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến nhân cách, lối sống của từng cá thể đang sống.

Tôn giáo cũng là nạn nhân của Bạo lực

Nếu nói bạo lực ở tuổi học sinh thì viễn cảnh tương lai gần của một xã hội rất có thể sẽ ngập chìm trong bạo lực.

Thì quay trở lại hiện tại chúng ta đang sống, song song với việc bạo lực trong học đường, vẫn thường xuyên có bạo lực ở các cơ sở tôn giáo. Đó là một hiện tượng bạo lực bao trùm, đa chiều và huyên náo.

Tu sĩ Nguyễn Văn Tặng DCCT Hà Nội, nạn nhân của bạo lực tại Đồng ChiêmBạo hành gia đình, bạo lực học đường… bạo lực tôn giáo. Một xã hội nhìn vào mảng nào cũng thấy bạo lực. Xảy ra thường xuyên, không trừ một ai, thậm chí có những bạo lực không bị lên án, không vi phạm pháp luật mà còn được dung túng, cổ súy, khuyến khích sử dụng bạo lực đối với các tôn giáo

Qua những biến cố của Thái Hà, Tòa Khâm Sứ, Tam Tòa, Loan Lý… gần đây nhất là Đồng Chiêm hay chùa Bát Nhã thuộc Giáo hội Phật Giáo Thống Nhất. Bạo lực xảy ra những nơi thanh tịnh bởi những bàn tay nhuốm bẩn, bởi những đoàn người mà người ta phân bua bằng cụm từ mới toe “Quần chúng tự phát”.

Với một thứ bạo lực đè lên các giá trị tâm linh, với những hành động bẩn thỉu mà chúng ta thấy qua vụ mà Tôn giáo gánh chịu. Như Bát Nhã, những người nữ tu hành bị khủng bố một cách thô bạo lên nhân phẩm và thể xác. Nhưng không có sự can thiệp của nhà cầm quyền hoặc họ cho đây là nội bộ tôn giáo?, thật hài hước và châm biếm. Đây là một khuynh hướng đang lo ngại cho mọi người dân Việt. Mỗi người cần phải lên tiếng một cách mạnh mẽ để xã hội tranh khỏi những luồng gió độc. Nhận thấy điều này, và đồng cảm với những gì mà mình cũng đã, đang phải hứng chịu. DCCT Việt Nam là người tiên phong dám nói lên sự thật và chia sẻ nỗi đau đó, chúng ta hãy đọc lại những ưu tư lắng lo này của DCCTVN qua THƯ HIỆP THÔNG VỚI TU SĨ PHẬT GIÁOĐANG GẶP NẠN TỪ TU VIỆN BÁT NHÃ:

“Ở đây đã thấy sự vi phạm trầm trọng đối với các giá trị tâm linh, với nhân phẩm và nhân quyền. Việc lăng mạ, ném đá, ném phân, xúc phạm chư tôn đức tăng ni và đông đảo Phật tử đến viếng thăm Bát Nhã và mới đây những biện pháp thô bạo, đập phá, hành hung khủng bố đối với các thầy cô đang học tu thiền tại đây là không thể chấp nhận được. Chúng tôi không tin rằng có giáo hội Phật giáo nào chủ trương dùng những biện pháp như thế. Một khuynh hướng rất đáng lo ngại và rất đáng lên án đang có triệu chứng nẩy nở trong xã hội: đó là dùng bạo lực để đàn áp mọi khác biệt, thay vì thượng tôn một trật tự pháp định công minh. Nhiều nông dân nghèo khổ, những nhà trí thức, những người hoạt động trong lĩnh vực truyền thông, và nhiều giới tôn giáo đang cảm nhận được luồng gió độc này”.

Kết

Chúng ta, mỗi một con người cụ thể cần thiết, khẩn trương chung tay xây dựng một xã hội có được công bằng, dân chủ, văn minh và nhân ái thực sự. Những người cầm quyền cần chấn chỉnh và biết thượng tôn một trật tự pháp định công minh. Có như thế mới có thể mong cho mọi thành phần trong xã hội tranh được những luồng gió độc, nhất là hiện tượng bạo lực đang tràn lan. Có như thế chúng ta mới hi vọng một đất nước hưng thịnh, sánh ngang bằng với thế giới, tự hào với tổ tiên, với hồn thiêng sông núi ĐẤT VIỆT.

Từ bạo lực đến khủng bố là một bậc thềm. Một xã hội bạo lực tất yếu dẫn đến xã hội khủng bố

Hà Nội 14.03.2010
Paulus Lê Sơn

Sunday, March 14, 2010

[Đứng Lên Vì Việt Nam] Phản đối National Geographic Society phát hành bản đồ sai sự thật về Hoàng Sa

Trích NguoiViet Boston

Hội Địa lý Quốc gia Hoa Kỳ (National Geographic Society) phát hành bản đồ sai sự thật về Hoàng Sa

Trên website về bản đồ thế giới của tổ chức tiếng tăm của Mỹ đã ghi chú sai sự thật về quần đảo Hoàng Sa là của Trung Quốc. (Hội Địa lý Quốc gia) có trụ sở tại thủ đô Washington của Mỹ lâu nay được coi là một trong những tổ chức khoa học và giáo dục phi lợi nhuận lớn nhất thế giới. Hội này có nhiều tổ chức trực thuộc như kênh truyền hình National Geographic Channel rất nổi tiếng hoặc National Geographic Maps chuyên về bản đồ. Dù là một tổ chức lớn và uy tín như thế, nhưng mới đây, National Geographic Society – cụ thể là tổ chức National Geographic Maps trực thuộc – đã có hành động khinh suất, coi thường lịch sử và công pháp quốc tế, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới chủ quyền của Việt Nam.

Trong bộ Bản đồ thế giới được phát hành trên website của tổ chức này tại địa chỉ http://www.natgeomaps.com/worldmaps.html , ở một số bản đồ, National Geographic Society ghi chú tại vị trí quần đảo Hoàng Sa là Xisha Qundao (Tây Sa quần đảo), theo cách định danh của người Trung Quốc, kèm chú thích “China” (Trung Quốc) ngay phía dưới. Ở một số bản đồ khác cũng nằm trong bộ trên, National Geographic Society ghi Paracel Is. tại vị trí quần đảo Hoàng Sa với chú thích bên dưới là “China”.

dien-dan-223.1

Quần đảo Hoàng Sa, được biết đến với tên tiếng Anh là Paracel Islands, nằm ở biển Đông là một phần không thể tách rời của VN. VN có đủ bằng chứng lịch sử và pháp lý về chủ quyền của mình đối với quần đảo này. Việc Trung Quốc sử dụng vũ lực để chiếm quần đảo vào năm 1974 là hành động xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của VN và bất chấp luật pháp quốc tế. Việc Trung Quốc kiểm soát quần đảo này sau khi chiếm được là một hành động cần bị lên án.

Các học giả và tổ chức quốc tế uy tín hầu hết đều biết những sự thật lịch sử nói trên, nên khi đề cập tới Hoàng Sa họ luôn giữ một thái độ khách quan khoa học. Tiếc rằng National Geographic Society, cũng là một tổ chức rất lớn, lại không tôn trọng tính khách quan khoa học trong bộ bản đồ nói trên. Bằng việc ghi chú quần đảo Hoàng Sa (hay Paracel Islands trong tiếng Anh) là Xisha Qundao và chú thích “Trung Quốc” bên dưới, tổ chức Mỹ này đã dành sự thiên vị của mình cho Trung Quốc, bất chấp các chứng cứ lịch sử, pháp lý. National Geographic Society vô hình trung đã ủng hộ việc một nước sử dụng vũ lực để cưỡng chiếm lãnh thổ của nước khác một cách bất hợp pháp.

Hiện National Geographic Society đang bán bộ bản đồ sai sự thật trên qua mạng với nhiều hình thức và ngôn ngữ khác nhau. Họ cũng phát hành trong ấn phẩm hằng tháng của mình. Điều này có nghĩa sự xuyên tạc của National Geographic Society đối với quần đảo Hoàng Sa của VN sẽ đến với nhiều người đọc khắp thế giới. Những người không am hiểu lịch sử của quần đảo này cũng như bị cái bóng dáng đồ sộ của National Geographic Society đánh lừa sẽ dễ dàng tin rằng Paracel Islands (quần đảo Hoàng Sa) là của Trung Quốc, một điều hoàn toàn sai sự thật…

Một lần nữa, chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng việc National Geographic Society phát hành bộ bản đồ nói trên là hành vi xuyên tạc lịch sử, bất chấp công lý, vi phạm nghiêm trọng chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ VN. Lẽ ra, với uy tín của mình, với tư cách là một tổ chức khoa học – giáo dục lớn, họ cần phải cẩn trọng và khách quan khi cho phát hành những bộ bản đồ như thế.

Đỗ Hùng
———— ——— ——— ——— ——— ——- —— —— —— —— ——-
Chuyện nghiêm trọng về chủ quyền Việt Nam: Bản đồ thế giới ghi Hoàng Sa là của Trung Quốc Chữ “Trung Quốc” tiếp tục xuất hiện ở quần đảo Hoàng Sa trên bản đồ thế giới

Tạp chí National Geographic Society có đăng bản đồ thế giới trực tuyến, trong đó quần đảo đang tranh chấp Hoàng Sa có chữ “China”. Quỹ Nguyễn Thái Học đã viết thỉnh nguyện thư yêu cầu gỡ xuống.

Mời quý vị bấm vào đây để ký thỉnh nguyện thư yêu cầu National Geographic Society bỏ chữ “China” trên bản đồ.

Nó sẽ dẫn đến hình phía trang nhà có thỉnh nguyện thư với bên dưới . Đây là nội dung bức thư, xin tạm dịch:

Thưa ông Jones:

Chúng tôi viết thư này liên quan đến chữ “Trung Quốc” trên quần đảo đang tranh chấp Hoàng Sa trong bản đồ thế giới trực tuyến do National Geographic Society đăng tải.

Thực tế là các đảo nằm ở biển Đông chưa bao giờ được cộng đồng quốc tế công nhận như là một phần lãnh thổ Trung Quốc.

Qua bức thư này, chúng tôi không có tham vọng thuyết phục quý vị rằng quần đảo Hoàng Sa thuộc về một quốc gia cụ thể. Thay vào đó, chúng tôi yêu cầu quý vị xem xét tình trạng hiện tại của những hòn đảo dựa vào các nguồn tin cậy, nguồn thứ ba để đặt tên cho đúng với các hòn đảo trên bản đồ của quý vị.

Những tranh chấp chủ quyền trên các quần đảo này vẫn chưa được giải quyết trong gần một thế kỷ qua. Những năm qua, Liên Hiệp Quốc cũng đã nhận được nhiều đơn kiện từ Việt Nam và Trung Quốc liên quan đến các các vấn đề này. Trong thực tế, những đệ trình gần đây nhất là tháng 5 năm 2009 đã được các nước này gửi tới Liên Hợp Quốc. Liên Hiệp Quốc đưa quần đảo Hoàng Sa vào diện “quần đảo tranh chấp” và chưa bao giờ xác nhận quần đảo này thuộc về quốc gia nào.

Chắc chắn rằng National Geographic Society là một nguồn thông tin quan trọng và đáng tin cậy cho nhiều người trên khắp toàn cầu, kể cả các nhà nghiên cứu và học sinh trẻ tuổi.

Vì vậy, để việc ngăn chặn công chúng nhận thông tin sai lạc, chúng tôi kêu gọi quý vị ngay lập tức xem xét lại và sửa đổi, dựa trên tình trạng thực sự của quần đảo Hoàng Sa để phản ánh cả hai quan điểm của cộng đồng quốc tế cũng như chính sách giữ trung lập của National Geographic Society.

Xin cám ơn.

Trân trọng,

Kính thưa quý vị,
Dưới đây là bức Thỉnh Nguyện Thư yêu cầu ông Chủ Bút và Ban Biên Tập nguyệt san National Geographic dẹp bỏ chữ China bên cạnh hai chữ “Paracel Islands” trên bản đồ online của họ
Xin click vào link http://www.natgeomaps.com/world_decorator_zoomify.html?zoomifyImagePath =assets/files/zoomify/re006220 77/re00622077_ 1_img&zoomifyNavigatorVis ible=false để xem bản đồ này.

Kính mời quý vị click vào link dưới đây và theo những bước được hướng dẫn để ký tên vào Thỉnh Nguyện Thư nói trên.
————————————————————————————————–
http://www.petitionspot.com/petitions/ParacelIslands

————————————————————————————————–
Ngoài ra cũng xin quý vị phổ biến Thỉnh Nguyện Thư này đến thân hữu, bạn bè, các diễn đàn Việt ngữ khác v.v…
CSVN có thể muốn dâng đất dâng biển cho Tàu Cộng nhưng chúng ta cương quyết tranh đấu giữ cho chủ quyền của quần đảo này là của Việt Nam.
Trân trọng,

TH Việt
viettran.qld@ gmail.com

Friday, March 12, 2010

Bộ Ngoại giao Mỹ tố cáo Việt Nam gia tăng đàn áp giới bất đồng chính kiến

Trích RFI
Trọng Nghĩa
Ngoại  trưởng Mỹ Hillary ClintonU.S. Department of State

Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton
U.S. Department of State

Trong bản báo cáo thường niên về tình trạng nhân quyền trên thế giới, do Ngoại trưởng Hillary Clinton giới thiệu bố hôm qua, Bộ Ngoại giao Mỹ đã chỉ trích việc chính quyền Việt Nam tăng cường chiến dịch trấn áp các nhà ly khai từ một năm qua.

Bản báo cáo đã nhắc lại ghi nhận của nhiều quan chức Hoa Kỳ trong thời gian gần đây, theo đó tình trạng nhân quyền tại Việt Nam vẫn ''còn là một vấn đề''. Theo Washington, chính quyền Hà Nội vừa đàn áp những người đấu tranh cho nhân quyền, vừa tìm cách bóp nghẹt những lời chỉ trích lưu hành trên các trang blog ngày càng phát triển ở Việt Nam.

Theo Bộ Ngoại giao Mỹ, tính tới cuối năm 2009, đã có ít nhất 60 tù chính trị vẫn còn bị giam giữ tại Việt Nam, trong đó có các luật sư, những người đấu tranh vì nhân quyền và dân chủ, cũng như một số người viết blog. Báo cáo cũng công nhận rằng một số nhà quan sát đã nêu lên con số hàng trăm người bị bắt giam vì chính kiến.

Điểm tích cực, theo Bộ Ngoại giao Mỹ là trong thời gian một năm qua, không thấy có việc tù nhân bị chết trong lúc bị cầm giữ. Ngoài ra vào tuần trước, Việt Nam cũng đã thả nữ luật sư Lê Thị Công Nhân sau khi cô mãn án tù. Tuy nhiên, nhà ly khai này vẫn bị quản chế ba năm.

Cũng trong lãnh vực ''tích cực'', bản báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ghi nhận là chính quyền Việt Nam đã giảm nhẹ cấm đoán trong lãnh vực tín ngưỡng, cũng như đã cố gắng tìm cách hoà giải với Toà Thánh Vatican.

Cho dù vậy, đối với Bộ Ngoại giao Mỹ, chính quyền Việt Nam vẫn hạn chế quyền tự do của các giáo hội Phật giáo và Thiên chúa giáo bị cấm hoạt động. Bản báo cáo nêu bật sự kiện các nhóm côn đồ tấn công các tu sinh của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, được Bộ Ngoại giao cho là một trong những tu sĩ Phật Giáo uy tín nhất thế giới hiện nay. Điều đáng nói, theo bản báo cáo, là các vụ tấn công này diễn ra dưới sự chứng kiến thờ ơ của công an, mặc sắc phục cũng như thường phục.

Nhưng không riêng Việt Nam, những nước nằm trong danh sách vi phạm nhân quyền của Washignton không ít. Từ Trung Quốc, Nga, cho đến Iran, Cuba, tất cả đều nằm trong tầm ngắm của bộ Ngoại giao Mỹ. Về Trung Quốc chẳng hạn, bản báo cáo nhận thấy là tình hình Trung Quốc hoàn toàn không có cải thiện gì cả, thậm chí lại còn nghiêm trọng thêm, với những vụ đàn áp ở Tân Cương, ở Tây Tạng, với việc bắt giam những người viết blog chỉ trích chính quyền.

Ngoài ra Washington cũng đả kích các đồng minh ở Trung Cận Đông như Ả Rập Xêút, Ai Cập về vấn đề phân biệt đối xử với phụ nữ, hạn chế tự do tôn giáo. Châu Âu thì bị chỉ trích vì tệ nạn bài Do Thái như tại Thụy Sĩ, trong lúc Hungary hay Rumani thì bị nêu tên trên vấn đề người Rom.

Tuy nhiên cũng có một số nơi được Bộ Ngoại giao Mỹ khen ngợi là có tiến bộ trên con đường dân chủ hóa chẳng hạn như Gruzia, Vương Quốc Bhoutan, hay Maldives.

Tuesday, March 9, 2010

Lê Thị Công Nhân bị tạm giữ

Trích BBC News

Lê Thị Công Nhân tại tòa

Lê Thị Công Nhân còn đối diện 3 năm quản chế

Luật sư bất đồng chính kiến vừa được thả tù, Lê Thị Công Nhân, bị công an tạm giữ ba tiếng đồng hồ vì "vi phạm lệnh quản chế".

Công Nhân đã về lại với gia đình khoảng 17h chiều thứ Ba 09/03 (giờ Việt Nam) sau khi bị công an tạm giữ chỉ 72 tiếng sau khi cô ra tù.

Luật sư này nói với BBC cô cho rằng lý do thực sự của việc tạm giữ là vì cô có hẹn trả lời phỏng vấn cùng ngày với một nhà báo nước ngoài tại Hà Nội.

Nói chuyện với BBC sau khi được thả, Lê Thị Công Nhân cho biết cô và một người chị ra ngoài để mua đồ dùng thì bị chặn lại, vào lúc 13h30.

"Tôi mua quần áo ở cửa hàng cách nhà khoảng một cây số. Khi bước trở ra, có bốn người công an ập vào. Họ nói: 'Chị vi phạm lệnh quản chế, mời chị về công an phường.'"

Theo luật sư Công Nhân, cô bị giữ cho đến 17h15 thì được thả về.

"Trong khi bị giữ, họ buộc tôi viết tường trình, lập biên bản. Lúc thuyết phục, lúc dọa dẫm, nhưng không quát tháo, đánh đập."

Theo quy định quản chế sau khi ra tù, luật sư Lê Thị Công Nhân không được phép rời khỏi địa phận phường nơi gia đình cô sống.

Nhưng cô cho biết trong 72 tiếng từ khi được trả tự do, cô cũng đã đi một số nơi nằm ngoài phạm vi phường mà không gặp sự kiểm tra.

Theo Công Nhân, lý do thực của việc tạm giữ hôm nay là vì cô có nhận lời gặp và trả lời phỏng vấn hãng tin AFP vào khoảng 3h chiều cùng ngày.

"Họ chỉ ngăn chặn khi họ cảm thấy bất lợi cho họ".

Luật sư bất đồng chính kiến Lê Thị Công Nhân đã được trả tự do hôm 06/03, sau ba năm ngồi tù.

Năm 2007, cô bị Tòa án TP Hà Nội xử 4 năm tù giam và 3 năm quản chế vì vi phạm Điều 88 Bộ Luật Hình sự. Tuy nhiên sau đó án phạt này đã được giảm 1 năm, còn 3 tù giam và 3 năm quản chế tại phiên phúc thẩm 27/11/2007.

Cô Công Nhân nói vào hôm được trả tự do, cô được đưa về phường và được cho xem biên bản quy định về việc bắt đầu thời gian quản chế.

"Tôi ký vào đó, viết ý kiến của tôi là: Tôi không chấp nhận bản án, trong đó có hình phạt phụ là quản chế."

"Tôi sẽ sinh hoạt như bình thường. Tất nhiên khi họ dùng sức mạnh trấn áp, thì sẽ không được như thế, nhưng tinh thần của tôi là như vậy."

Luật sư Lê Thị Công Nhân và cộng sự, luật sư Nguyễn Văn Đài - trưởng văn phòng luật Thiên Ân, đã bị bắt từ 06/03/2007 vì tội Tuyên truyền chống Nhà nước XHCN.

Sau đó họ cũng bị xóa tên khỏi Đoàn luật sư TP Hà Nội, điều có nghĩa hai người sẽ không được phép hành nghề ở trong nước.

Họ bị buộc tội đã 'lợi dụng giấy phép hành nghề để hoạt động chống lại lợi ích quốc gia và vi phạm nghiêm trọng luật Việt Nam'.

Luật sư Đài bị án nặng hơn, sau khi phúc thẩm là 4 năm tù giam và 3 năm quản chế.

Monday, March 8, 2010

Cuộc thăm viếng Luật sư Lê Thị Công Nhân tại nhà của cô

VietCatholic News (08 Mar 2010 12:46)
HÀ NỘI - Tối Chủ nhật 7/3/2010, đường phố Hà Nội ồn ào, náo nhiệt. Người người vội vã, những quầy bán hoa tươi nhộn nhịp, các hàng lưu niệm đông đúc... dường như cả thành phố tấp nập bất chấp những khó khăn của thị trường, của cuộc sống để mừng ngày Quốc tế Phụ nữ - 8/3.

Chúng tôi, mấy giáo dân, sau khi đi thăm người thân trong Bệnh viện Bạch Mai, ngồi trong một quán cafe nhìn dòng người hối hả xuôi ngược mà thấy vui vui. Thì ra, dù cuộc sống có khó khăn đến đâu, con người vẫn nghĩ tới con người thật nhiều và dành cho nửa nhân loại những điều tốt đẹp nhất.

Công Nhân, một tín hữu Kitô mới trở về nhà của mình
Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc

Mấy anh em ngồi nói chuyện về giáo lý, giáo luật như lệ thường khi gặp nhau. Bỗng như một sự vô tình cùng nhau nói đến lời kinh “Thương người có mười bốn mối”, một bạn trẻ đọc “Thương xác bảy mối:... thứ bốn viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc...” đọc đến đây, một anh bạn chợt lên tiếng: “Chúng ta vừa đi thăm kẻ liệt, nhưng kẻ tù rạc thì chưa, chúng ta đã thăm nhiều kẻ ốm đau, giúp đỡ một số người đói rách, nhưng đúng là chưa bao giờ đến thăm những kẻ đã và đang ở tù, hình như chúng ta quên mất họ là một trong những thành phần chúng ta cần quan tâm”. Một người tiếp lời: “Thăm kẻ liệt thì còn được, thăm tù nhân thì coi chừng nhà nước lại coi là... liên quan chính trị đấy”.

Một người lên tiếng: “Tại sao lại sợ là liên quan nào, chúng ta chỉ đến thăm họ trong cảnh tù đày, khổ sở vì những lý do cụ thể là con người, còn việc họ ở tù vì sao, đó là việc của chính quyền với bản thân họ. Ai làm, người đó chịu chấp nhận, không có luật pháp nào cấm thăm kẻ tù đày, không luật pháp nào cấm được tình yêu thương, nếu tám giáo dân Thái Hà “được” đi tù thì hôm nay tớ đi thăm ngay”.

Mọi người đều tán thành điều đó, và cùng nghĩ tới Lê Thị Công Nhân, một Kitô hữu mới ra khỏi nhà tù để về với cuộc sống đời thường sau 24 tiếng. Hẳn giờ này, cô ấy còn chịu nhiều những choáng váng, đau khổ và áp lực của ba năm cách biệt với cuộc sống xã hội. Tất cả mọi người nhất trí đến thăm cô ấy nhân ngày phụ nữ 8/3, ngày mà mọi phụ nữ đều đáng được tôn vinh. Gọi chiếc taxi bên đường, ghé qua hàng bán hoa tươi mua một bó, chúng tôi cùng nhau lên đường.

Cuộc viếng thăm không hẹn trước

Chiếc taxi đưa chúng tôi vòng lượn hỏi thăm nhà mất chừng nửa tiếng. Một người làm nghề “xe ôm” hỏi: “Các anh đi thăm cô gì mới ra tù phải không? Phải đi vào ngõ 4 đường Phương Mai”. Cũng buồn cười cái anh xe ôm, đi tù về thì đâu chỉ có một người, nhưng anh ta đã chỉ đúng chỗ. Chiếc taxi đưa chúng tôi vào một ngõ, khi chiếc xe dừng lại, ngạc nhiên thấy Lê Thị Công Nhân đang ở đó, tay cầm mấy chiếc mắc áo trong tay.

Chúng tôi xuống xe, một bạn trẻ ôm bó hoa trên tay và cùng tới chào hỏi. Lê Thị Công Nhân ngạc nhiên: “Chào các anh, em chưa gặp các anh bao giờ”. Cũng đúng thôi, đã gặp nhau bao giờ mà quen được. Chúng tôi trả lời: “Chào em, chúng tôi là những tín hữu Kitô, ngày hôm nay, đến chúc mừng em và thăm em khi nghe tin em vừa mới được ra tù”. Cô nở nụ cười mời chúng tôi về nhà.

Con ngõ nhỏ, hơi tối dẫn chúng tôi đến khu tập thể, Công Nhân nói: “Ngõ tuy tối nhưng không đáng sợ”, qua dãy sân trước nhà tập thể, mấy anh em chúng tôi cùng nhau bước lên cầu thang, ngoài sân, một phụ nữ mặc áo đỏ, đội mũ bảo hiểm đang ngồi trên xe bấm điện thoại gọi đi đâu đó, Công Nhân nói: “Những người này ở vòng trong, là phụ nữ, còn nam giới thì ở vòng ngoài, chắc họ sắp đổi gác”.

Qua hai lần cửa, chúng tôi bước vào căn hộ của gia đình Công Nhân nằm ở cuối tầng 3 khu tập thể, một căn hộ nhỏ nhắn và xinh xắn. Một chiếc bàn giữa hai bên là chiếc ghế ngồi kê đệm. Trên tường nhà có Thánh giá mang tượng Chúa Giêsu và những câu Kinh Thánh được trích ra. Chúng tôi ngồi yên vị và bắt đầu cuộc nói chuyện.

Cuộc viếng thăm khá bất ngờ, chủ và khách đều mới mẻ, tôi giới thiệu: “Chúng tôi, những tín hữu Kitô, được tin em vừa ra khỏi nhà tù, chúng tôi đến thăm em nhân ngày Phụ nữ 8/3 và chúc mừng em đã ra khỏi nhà tù, cách biệt với xã hội để trở lại cuộc sống bình thường”.

Bác Trần Thị Lệ khá ngỡ ngàng khi thấy Công Nhân đưa chúng tôi vào nhà, những người khách không được mời và cũng chưa quen biết. Nhưng dường như sự cảnh giác biến mất, những nụ cười luôn nở trên môi khi biết chúng tôi là những Kitô hữu.

Buổi nói chuyện không dài, chúng tôi chúc mừng em được ra khỏi nhà tù về với gia đình, về với cuộc sống thường ngày của em. Lê Thị Công Nhân kể cho chúng tôi về những ngày tháng, những cảm xúc của em khi ở trong tù, khi được trở về với cộng đồng, với gia đình và em khẳng định rằng: “em không chấp nhận bản án, nghĩa là cái đuôi đằng sau là 3 năm quản chế không có giá trị gì với em”.

Cuộc viếng thăm không hẹn trước tại ngôi nhà nhỏ của cô
Chúa là người Cha, người Thầy và là người bạn đồng hành cùng em

Kể về nỗi sợ hãi khi sống trong nhà tù suốt ba năm, cô nói: “Những năm tháng trong tù, có những khó khăn khi cô đơn, khi ốm đau... tất cả em dần dần đều quen nhưng không tạo cho em nỗi sợ hãi.

Nhưng em đã có lần trải qua nỗi sợ thật sự, đó là khi truyền hình liên tục đưa tin về câu nói của Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt, TV đưa đi đưa lại nhiều lần trong các chương trình thời sự, chương trình vì an ninh, cả buồng tù hơn 60 chục con người bắt đầu lên đồng, gào rú đòi đập chết cái lũ ấy đi, đòi chém đòi giết mà trong phòng tù đó, chỉ mỗi mình em là công khai xưng rằng mình là Kitô hữu... em thấy thực sự sợ hãi và báo với quản lý buồng giam. Tuy em chưa được nghe chính thức câu nói đó, nhưng em tin là không phải như thế, em đã có cách xem TV và đọc báo của em, em hiểu rằng, có một sự thật như thế nào đó chưa biết, nhưng không phải là sự thật này.”
Và cô kết luận: “Cái đáng sợ chính là sự ngu dốt của con người, nó có thể biến người ta trở thành những con người mất kiểm soát hành vi”.

Câu chuyện của chúng tôi có khi bị ngắt quãng bởi sự xúc động của cô, mắt ngấn lệ khi nói về những điều cô thao thức, những suy nghĩ về thế sự, về thời cuộc...

Để vượt qua ba năm tù tội với một phụ nữ là điều không hề đơn giản như những người chưa trải qua có thể nghĩ. Tuy nhiên, Lê Thị Công Nhân nói: “Để vượt qua ba năm trong nhà tù, em chỉ có mỗi cuốn Kinh Thánh, trang cuối cùng em đọc xong lần thứ nhất là đêm trước ngày em ra tòa Phúc thẩm. Ba năm trong tù, Chúa vừa là người bạn, là người Cha, là người Thầy của em, nâng đỡ, dìu dắt em vượt qua tất cả. Em mới về chưa thể cập nhật được thông tin, nhưng ở trong tù, em thấy trên TV những người giáo dân Thái Hà ra trước vành móng ngựa mặc rất đẹp, áo dài đỏ, áo vét... đó là điều để lại ấn tượng trong em ”. Em tỏ ý nói rằng, khi nghe được có những cuộc đi bộ hàng chục km của giáo dân đến trước phiên tòa, rực rỡ với cành thiên tuếem rất tiếc không được hòa chung vào dòng người đó, vì em nhỏ bé nên chắc chắn em sẽ đi hàng đầu.

Tôi nói với cô rằng: “Tôi không phải là người có thể hoạt động chính trị hay có khả năng làm chính trị, chỉ đơn giản là một tín hữu Kitô, hôm nay đến thăm em vì chúng ta là Kitô hữu, nhưng những câu chuyện em kể đã để lại cho chúng tôi thêm một lần xác tín, một niềm tin được tăng thêm. Khi chúng ta có Thiên Chúa là đấng tối cao, đấng soi sáng và dẫn đường làm Thầy, làm Cha và làm Bạn của chúng ta, chúng ta có thể đi đến bất cứ nơi nào Chúa muốn”.

Chia tay Lê Thị Công Nhân và gia đình cô, chúng tôi ấn tượng mãi về một cô gái, một con người nhỏ nhắn về hình thể, một con người yếu đuối về thể xác, nhưng có một tinh thần thép và một sự hiểu biết, lòng bao dung rộng lớn.

Chúng tôi tin cô sẽ vượt qua tất cả, vì trong cô có một niềm tin – Một Đức Tin, cô chữa lại.

Hà Nội ngoài kia vẫn dập dìu những chiếc xe với những bó hoa lớn, những hàng quán vẫn tấp nập... Chúng tôi ra về từ một ngõ nhỏ dưới trời lấp phất mưa xuân.


J.B Nguyễn Hữu Vinh