Translate

Sunday, February 1, 2009

Nguyễn Thanh Ty: Năm Sửu cà kê dê ngỗng về trâu!

By anlac • Jan 31st, 2009 • Category: Nguyễn Thanh Ty
Trích Người Việt Boston

Tết Kỷ Sửu năm nay, ngày Mồng Một Tết lại nhằm ngày thứ Hai, 26 tháng 01 năm 2009, vì là trâu ở xứ người nên phải đi cầy như thường chứ đâu có được như trâu ở xứ mình nằm nhà thảnh thơi nhơi cỏ ba ngày Tết như cái “thuở thanh bình” ba mươi lăm năm trước còn ở quê nhà, một quê hương miền Nam muôn ngàn yêu dấu.

Hóa ra cái kiếp trâu đi đâu, ở đâu cứ vẫn phải khổ. Có đấu tranh cách mấy cũng vẫn bị đánh trâu! Buồn thật! Sầu đời thật!

Dục phá thành sầu chi dụng tửu!
Thôi thì để phá nỗi buồn của ba ngày Tết tha phương, chúng ta hãy cùng nhau “ngày Xuân nâng chén” rồi đem cái năm Kỷ Sửu này ra tán chuyện trâu cho đỡ buồn. Biết đâu cũng có đôi điều thú vị!
Trước tiên là cái tuổi Sửu “di động”. Ngày mới qua Mỹ, bỗng dưng ai cũng tự mình đổi qua tuổi Sửu hết trơn, dù cho mình trước đó là tuổi Tý hay tuổi Dần, Ngọ, Mùi… Đi làm hùng hục một ngày 2 job, 16 tiếng đồng hồ liên tục, về đến nhà là lăn ra ngủ như chết không biết trời đất là gì. Thức dậy, ăn vội ba hột cơm, hay gói mì rồi lại hối hả đi làm. Chẳng khác gì con trâu đi cày. Được ngày nghỉ, hỏi muốn gì? - Muốn ngủ! Câu trả lời ngắn gọn, dứt khoát. Quả thật, cái xã hội thực dụng làm cho con người buộc phải quay cuồng theo nó để mà thích nghi và sinh tồn. Nếu không thì cái lũ giặc “bill” hè nhau đánh tới tấp, tối tăm mặt mũi, từ chết đến bị thương, không trốn tránh đi đâu được. Vậy chẳng phải “ô tô ma tích” đổi thành tuổi Sửu là gì?

Thế rồi chừng năm, bảy năm sau, thi đậu vào quốc tịch, trở thành công dân Mỹ, đã tậu được nhà, tậu được xe mới, trong “băng” có tí tiền “xe vin” thì lại đổi tuổi một lần nữa thành tuổi Dậu, làm con gà trống có cái đuôi cong vòng ngũ sắc, gáy vang trời.

Lúc này hăm hăm hở hở xênh xang áo gấm chuẩn bị về làng.

Cầu trời cho mấy con gà trống này đừng có dại mà nghe lời con cáo trong truyện ngụ ngôn của ông Tây Cà lồ Lã phụng Tiên, nhắm mắt lại mà gáy.

Con cáo của ông Lã phụng Tiện đem miếng phó mát ra dụ xem ra ít nguy hiểm. Còn con cáo của ông Hồ thì đem chùm khế ngọt với “em bé chân dài” ra dụ thì đáng sợ hơn nhiều. Nó rất “ép phê” đối với mấy con gà trống mới mọc lông đuôi, gọi là giầu nẫy, xưa nay chưa hưởng mùi đời, nên khi nghe con cáo Hồ ca bài ca con cá ngọt như đường phèn thì hai mắt cứ nhắm tít lại mà gáy. Lúc con cáo Hồ nhảy lên nhe hai hàm răng chơm chởm, nhọn hoắc ngoặm vào cổ, lúc đó mới mở mắt ra thì ô hô! ai tai! việc đã rồi.

Đó là chuyện giả tỉ thôi. Thực ra người Việt tị nạn cộng sản đã bỏ của chạy lấy người, mười phần cầm chắc chết hết chín thì không ai dại mậu gì mà nghe lời dụ dỗ của bầy cáo đã thành hồ ly tinh mà bị mắc bẫy một lần nữa.

Có chăng là chỉ mấy anh chị “Vịt kìu” yêu nước ham danh, ham lợi, kéo nhau về nhận bằng khen, nhận khăn quàng đỏ để rồi bị ngoạm cổ không kêu lên được một tiếng.
Cũng là đáng đời và đáng với cái giá phải trả cho sự tham lam và ngờ nghệch.

Bây giờ chúng ta hãy cùng nhau cà kê dê ngỗng về chuyện trâu để uống rượu thưởng Xuân chơi, cho nó dzui dzẻ cái cuộc đời!

Địa danh Trâu

Từ cái thời Đông Chu, ông Khổng Khâu người nước Lỗ, tức Đức Vạn thế sư biểu Khổng tử còn dẫn học trò đi lang thang khắp nơi để truyền bá tư tưởng thì đã đi qua nhiều nước trong đó có nước Trâu, nước Quắc, nước Đồ…

Ngày nay tra cứu không còn biết các nước đó nằm ở đâu trên cái xứ Trung Hoa rộng mênh mông.
Trong binh thư của Tôn Vũ tử có ghi chép mưu kế “Dĩ Đồ diệt Quắc” nghĩa là giả vờ mượn đường của nước Đồ để diệt nước Quắc. Khi quân binh lọt được vào nước Đồ rồi thì trở mặt cướp luôn nước Đồ. Tích này nhắc lại hai địa danh Quắc và Đồ, không thấy sách nào nhắc đến nước Trâu cả.
Đất nước Trung Hoa rộng vậy mà bọn vua chúa Tàu vẫn cứ còn tham, luôn có ý đồ xâm chiếm nước khác. Chúng đã chiếm một phần đất, mười mấy ngàn thước vuông sát biên giới và mấy quần đảo ngoài khơi của Việt Nam rồi, mà cái bọn cầm quyền Việt Nam hiện tại cứ ngậm miệng êm ru bà rù, lại còn cấm cản và bắt bớ tất cả những ai lên tiếng hay biểu tình chống đối sự xâm chiếm ấy. Người dân trong nước có ý ngờ rằng hình như bọn cầm quyền đã có ý đồng lõa bán, nhượng lãnh thổ cho giặc.
Ở Việt Nam, Hồ Tây, một thắng cảnh của Hà Nội, trước khi mang tên Dâm Đàm (hồ mù sương) ở thời Lý, Đoái hồ, Tây hồ dưới thời Lê, đã từng mang tên là hồ Trâu, hồ Trâu vàng. Một câu thơ cổ còn nhắc nhở:

Ngưu hồ dĩ biến tam triều cục
Long đỗ nhưng lưu bách chiến thành
(Hồ Trâu đã trãi ba triều đại
Thành (bách) chiến còn lưu đất Rốn Rồng)

Họ Trâu

Cái họ Trâu này người Việt chắc không ai có. Ngày xưa ở bên Tàu, cũng thời Đông Chu, chỉ có một người duy nhất. Đó là Trâu Kỵ. Ngoài ra xưa nay chưa nghe nói tới người thứ hai. Con cháu ông này cũng không thấy sách vở Tàu nói tới. Chuyện ông Trâu Kỵ này cũng lý thú lắm. Xin chép lại đây để làm mồi uống thêm đôi ba ly nữa cũng đậm đà. Truyện như sau:
“ Tề Uy vương từ khi lên làm vua, say đắm tửu sắc, lại ham mê âm nhạc, không nghĩ gì đế quốc chánh. Trong khoảng 9 năm, các nước Hàn, Ngụy, Lỗ, Triệu đều đem quân đến đánh. Quân Tề thua luôn. Một hôm có người thư sinh, xin vào yết kiến tự xưng họ là Trâu tên Kỵ, có biết gẩy đàn cầm, nghe nói vua Tề thích âm nhạc nên tìm đến. Tề Uy vương cho mời đến và đưa cho cây đàn cầm. Trâu Kỵ lên dây đàn mà không gẩy.

Uy vương hỏi:
- Tiên sinh đã là người khéo gẩy đàn cầm thì nên cho ta nghe một bài. Nay tiên sinh lên dây mà không gẩy dễ thường cây đàn không được tốt hay là chê ta không biết nghe đàn chăng?
Trâu Kỵ đặt cây đàn xuống rồi nghiêm nét mặt, đáp rằng:

- Tôi biết là biết cầm lý, còn như tiếng chỉ, đường tơ là của bọn nhạc công, tôi dẫu biết cũng không đáng gẩy hầu đại vương làm gì.
Uy vương nói:
- Cầm lý thế nào? Xin tiên sinh cho nghe!

Trâu Kỵ nói:
- Cầm tức là cấm, tức là cấm chỉ những sự dâm tà thì mới giữ được chính đạo. Vua Phục Hi đời xưa chế ra đàn cầm có năm dây. Dây lớn là vua, dây nhỏ là bề tôi. Đến đời Văn vương, Vũ vương mỗi ngài lại thêm một dây nữa, để hợp cái tình ý vua tôi. Xem thế đủ biết rằng vua tôi có tương đắc nhau thì chính lệnh mới hòa hợp, cái đạo trị nước chẳng qua như thế mà thôi.

Uy vương nói:
- Tiên sinh nói phải lắm! Nhưng tiên sinh đã biết cầm lý thì tất biết cầm âm, xin tiên sinh hãy gẩy chơi một khúc

Trâu Kỵ nói:
- Tôi học nghề đàn thì phải biết cái phép chơi đàn. Đại vương lo việc nước, há lại không biết cái đạo trị nước hay sao? Nay đại vương bỏ nước mà không trị có khác gì tôi ôm đàn mà không gẩy hay không? Tôi ôm đàn mà không gẩy thì đại vương không được thỏa lòng, thế thì đại vương bỏ nước mà không trị, chắc là muôn dân không được thỏa lòng vậy.

Uy vương ngạc nhiên nói rằng:
- Thế là tiên sinh mượn cây đàn cầm để can ta đó. Ta hiểu rồi.
Uy vương mời Trâu Kỵ lưu lại ở hữu thất. Ngày hôm sau, Tề Uy vương tắm gội sạch sẽ rồi triệu Trâu Kỵ vào bàn việc nước. Trâu Kỵ khuyên Tề Uy vương tiết bớt những sự tửu sắc, tin dùng người trung lương, trừ bỏ đứa gian nịnh, sai luyện tập binh mã. Tề Uy vương bằng lòng lắm. Tức khắc cho Trâu Kỵ làm tướng quốc. (Thủ tướng). Nhờ có tài của Trâu Kỵ mà nước Tề trở nên bá chủ. Các nước Sở, Ngụy, Hàn, Triệu, Yên đều chịu kém và hàng phục không còn dám đem quân xâm chiếm bờ cõi nữa.

Con trâu với nhà nông.

Việt Nam là nước nông nghiệp. Chín chục phần trăm người dân sống nhờ ruộng đồng. Con trâu là bạn thân thiết của nông dân. Thuở nhỏ học tiểu học, ai ai mà chẳng thuộc lòng bài học thuộc lòng: Trâu ơi!

Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây, trâu đấy ai mà quản công
Bao giờ ngọn lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn

Hoặc là:

Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày, vợ cấy con trâu đi bừa

Hay gần gủi, thân thương như trai với gái như một câu thành ngữ của người Thái:

Nhinh chăm trai, quai nhăm cả
(Gái gần trai, trâu gần mạ)

Trâu đen ăn cỏ, trâu đỏ ăn gà.

Thuở xưa cái cảnh êm đềm giữa người và trâu giúp đỡ nhau trong công việc đồng án là vậy. Nhưng kể từ ngày “Bác Hồ” cõng rắn Cộng sản vào cắn gà nhà với chính sách “Cải cách ruộng đất” rồi tiến tới Hợp tác xã thì nhân dân miền Bắc đói khổ triền miên. Cái cảnh cha chung không ai khóc, gọi là “làm chủ tập thể”, người dân trắng tay, ruộng tư hữu của mình bỗng dưng bị trưng thu làm của chung nên chẳng ai tha thiết gì công việc một nắng hai sương trên đồng ruộng. Do đó, hồi xưa ruộng tư hữu, trồng lau ra lúa, bây giờ Hợp tác xã, trồng lúa lại ra lau, là do chẳng ai buồn làm cỏ lúa.
Vừa mất mùa do thiên tai, vừa mất mùa trên sân phơi. Người dân đói quá bèn làm ca dao để lâu lâu nhai lưỡi nuốt nước miếng cho đỡ đói:

Hợp tác rồi lại hợp te,
Không còn miếng vải để che “Bác Hồ”

Khi cưỡng chiếm được miền Nam, việc đầu tiên của kẻ thắng trận là cướp lấy hết máy cầy của dân chúng đồng bằng sông Cửu Long chở về Bắc, tuyên truyền rằng “dùng chiến lợi phẩm của địch để công nghiệp hóa nông thôn ta”. Rồi đặt tên cho máy cầy miền Nam là “Trâu đỏ” có lẽ vì màu sơn đỏ hay cái gì vào tay cộng sản phải đỏ như máu mới gọi là cách mạng chăng?
Khổ nỗi, máy cầy thì chất đống ở ngoài trời thi gan cùng mưa nắng ngày này qua tháng nọ, không ai biết xử dụng con trâu đỏ cày bừa ra làm sao. Phải năn nỉ mấy ông nông dân “ngụy” dạy cho biết cách điều khiển. Học xong rồi, cán bộ ta về Bắc lái máy cầy cứ vênh mặt lên trời, trổ mòi “cách mạng chuyên chính”. Hợp tác xã nào chịu đút lót thì mới chịu đến cầy, nơi nào không của đút thì đồng ruộng ta cứ nằm đó … chờ cho đến hết thời vụ.
Nông thôn miền Bắc lại xãy ra cảnh: Trâu đen ăn cỏ, trâu đỏ ăn gà”.
Khi nào trâu đỏ được ăn gà thì máy mới chạy được. Dầu cặn, dầu nhớt trâu đỏ ăn thiếu dinh dưỡng máy không chịu chạy.
Chỉ mấy năm sau, máy móc hỏng hóc, không ai biết sửa, không có phụ tùng thay thế, trâu đỏ biến thành đống sắt vụn bán đồng nát. Cốt khỉ vẫn hoàn cốt khỉ. Hợp tác xã thành tan tác xã. Nhà nước ta xấu hổ nhưng không dám công nhận đành len lén nhắm mắt cho “khoán chui”, tức là cho nông dân làm ruộng lại y như cũ. Rõ là “mèo lại hoàn mèo”.

Huyền thoại Trâu vàng và nguồn gốc dùng trâu cầy ruộng.

Hồ Trâu và dòng sông Kim Ngưu, một nhánh sông Tô chảy bao quanh phía Nam Hà Nội, từ Tây sang Đông, còn gợi lại một huyền tích của thời kỳ thần thoại Việt Nam:

Ở vùng đầm lầy chân núi Tiên Du (Bắc Ninh) có con trâu vàng náu mình. Một pháp sư dùng tích trượng yểm lên trán trâu. Trâu lồng chạy xuống phía nam, quần nát cả một vùng Khoái Châu lầy lội, vùng ấy sau gọi là Vũng trâu đầm. Chưa hết cơn giận giữ, trâu lại bơi qua sông Cái rồi chạy ngược lên phía bắc, đường do vết chân trâu dẫm lún thành sông Kim Ngưu. Rồi trâu chạy vòng vo làm sụt cả một vùng thành đầm hồ và ẩn kín dưới nơi ấy. Đó là hồ Trâu Vàng.

Những chỗ trâu quậy nát mọc lên một loài lúa dại. Người dân hái lúa dại để làm thực phẩm rồi dần tiến tới việc trồng lúa. Ban đầu, người dân chưa biết cách cầy bừa. Mãi đến khi thái thú Sĩ Nhiếp đem kỹ thuật làm cày, bừa và cách dùng trâu để vỡ đất, cày ruông dạy cho dân, lúc đó việc canh tác mới phát triễn rộng rãi.

Lúc đầu người dân sử dụng trâu vào việc dẫm nát cỏ, sục bùn trong ruộng để sửa soạn đất đai trồng lúa. Lề lối canh tác này sách cổ gọi là “thủy nậu”. Lối làm ruộng này kéo dài cho đến trước và sau cái gọi là Cách mạng mùa Thu vẫn còn phổ biến trong các thung lũng Thái, Mường miền Tây Bắc.

Chuyện ngụ ngôn: Cái khôn mày để ở đâu?

Câu chuyện này, người viết học từ cái thời còn để chỏm, lớp ba trường làng, cách đây hơn 60 năm nên quên gần hết nguyên bản, chỉ nhớ lỏm bỏm đại ý câu chuyện, vậy xin được kể theo cách viết hình sự của báo Công An Nhân Dân trong nước, như sau:

Cái thuở đất trời còn nguyên thủy cộng sản, người và vật sống chung hài hòa với nhau trong thế giới đại đồng, làm tùy sức, ăn tiêu tùy cầu, chẳng ai có máu lạnh hay khát máu. Duy chỉ trong cánh rừng kia có con cọp ỷ mình mạnh bạo, thường hay hiếp đáp kẻ yếu, làm điều xằng bậy, nên tự xưng là Hổ Mạnh Đại Vương, thỉnh thoảng mò ra làng trộm chó, bắt trâu ăn thịt, dân làng đã kịch liệt phản đối nhiều lần. Đại Vương Hổ Mạnh lần nào cũng đem luật rừng xanh có 4 điều ghi chép ra thề thốt, hứa hưu, hứa nai, xin khắc phục, nghiêm khắc kiểm điểm và rút kinh nghiệm. Nhưng chứng nào vẫn tật ấy.
Cạnh bìa rừng có một lực điền trai trẻ tên là Tấn Lực sống cùng với con trâu khoẻ mạnh, dễ bảo. Anh Lực đặt tên nó là Doãn. Mỗi lần đánh trâu ra ruộng, anh chỉ vỗ nhẹ lên đầu nó và nói: “Doãn ơi! Ta bảo Doãn này!” là trâu vâng lời anh Lực một cách ngoan ngoãn nên anh Lực chẳng cần dùng đến roi mây bao giờ. Trâu Doãn có đặc tính là luôn luôn đi lề bên phải. Có lúc anh Lực lơ đảng ngó lên trời xanh, lắng tai nghe chim họa mi hót trên đầu, quên bẵng việc lái lưỡi cày mà trâu Doãn cũng cứ theo quán tính “lề bên phải” mà đi đúng luật, nên đường cầy cứ thẳng băng y như ông sĩ phu họ Hà nhắm mắt “dắt tay nhau đi dưới tấm bảng chỉ đường…” vậy.

Một hôm, anh Lực cùng trâu Doãn đang mãi mê cầy ruộng nên không để ý đến Đại vương Hổ Mạnh đã ngồi rình trên bờ ruộng từ lâu. Khi cầy ngang qua chổ Đại vương Hổ Mạnh ngồi, trâu Doãn nhe răng ra cười cầu tài với Hổ Mạnh. Hổ Mạnh cất tiếng hỏi:

- Này đồng chí Doãn! Đồng chí to xác khoẻ mạnh như thế kia cớ sao lại cứ sợ thằng người nhỏ bé như thế? Tại sao cứ để cho nó bóc lột sức lao động của mình mà không chịu vùng lên theo cách mạng để cướp lại quyền làm chủ tập thể của mình hử?

Trâu Doãn lại nhe hàm răng trắng nhỡn lớn quá khổ ra cười cười trả lời rằng:
- Báo cáo đồng chí Đại vương nắm! Thằng người tuy nhỏ mà nó có trí khôn!
- Trí khôn là cái gì vậy, đồng chí Doãn!
- Hãy hỏi thằng người thì khắc biết.
Đại vương Hổ Mạnh tò mò muốn biết trí khôn là cái củ gì mà thằng người lại có thể sai khiến được con vật to lớn hơn nó đến mấy lần mà không cần đến điều 4 luật rừng xanh và móng vuốt sắc bén của mình nên quay sang hỏi nông dân Tấn Lực:
- Này thằng nông dân kia! Cái khôn của mày để ở đâu đưa cho tao coi thử!
- Thưa Đại vương, trí khôn tôi để ở nhà! Anh Lực trả lời.
- Vậy hãy về nhà lấy ra đây cho ta xem mau!
- Tôi về, ở đây Đại vương ăn thịt con trâu của tôi sao?
- Ta xin thề trên điều 4 là không ăn thịt con trâu của ngươi!
- Xin lỗi Đại vương nghe! Đại vượng thề nhiều lần quá nên lời thề hết linh rồi!
- Vậy, mày muốn ta làm sao để cho mầy tin?
- Nếu Đại vương chịu để cho tôi trói vào gốc cây kia tôi mới yên tâm về nhà.
- Được! Mầy cứ trói ta lại.
Sau khi trói chắc Hổ Mạnh vào gốc cây trên bờ ruộng xong, Tấn Lực xuống ruộng tháo quải ra cho trâu Doãn đi ăn cỏ, anh lấy cái bắp cầy đến quất túi bụi vào lưng Hổ Mạnh. Vừa quất, anh vừa quát:
- Trí khôn của tao đây này!
Đại vương Hổ Mạnh đau đớn vô cùng, vừa khóc vừa van xin tha mạng rối rít.

Người viết không nhớ đoạn kết anh Lực này đánh chết Hổ Mạnh hay vì lòng nhân đạo mà tha cho Hổ Mạnh về rừng. Nhưng sau gần một thế kỷ, người viết đoán chừng rằng, có lẽ anh Lực vì lòng nhân (đàn bà) đã tha cho Hổ Mạnh nên con cháu đời sau mới bị cái hậu quả khôn lường “thả hổ về rừng”, khiến cho 80 triệu dân phải điêu linh đồ thán vì nạn hổ vồ.

Công lao của trâu.

Trong truyện “Lục súc tranh công” của tác giả “Vô danh”, trâu đã kể công như sau:
Trâu mỏi nhọc trâu liền năn nỉ
“Một mình trâu ghe nỗi gian nan
Lóng canh gà vừa mới gáy tan
Chủ đã gọi thằng chăn vội vã
Dạy rằng: đuổi trâu ra thảo dã
Cho nó ăn ba miếng đỡ lòng
Chưa bao lâu thoắt đã rạng đông
Vừa đến buổi cày bừa bua việc
Trước cổ đã mang hai cái niệt
Sau đuôi thêm kéo một cái cầy
Miệng đã dàm, mũi lại dòng dây
Trên lưng ruồi bâu, dưới chân đĩa cắn…

Làm không kịp thở
Ăn không kịp nhai
Tắm mưa trãi gió chi nài
Đạp tuyết dày sương chi sá…

Từ đồng cạn đến đồng sâu, trâu bao thầu hết mọi việc cày bừa. Đến mùa gặt, xe trâu lại lo chuyên chở lúa về nhà. Hết vụ mùa, trâu lên rừng kéo gỗ, kéo củi, kéo tranh tre lá về cất nhà, cất trại…Quả thật thân trâu vất vả một đời chẳng có lúc nghỉ ngơi, làm quần quật cho đến ngày sức tàn, lực mỏi. Rồi bị đem đi xẻ thịt.
Về công trận, trâu ngày xưa được xử dụng như đoàn chiến xa bây giờ. Trâu được buộc gươm nhọn trên sừng và cho uống rượu say sau đó lùa xô vào húc, chém phá đội hình quân địch. Trâu cũng dùng trong trận hỏa công bằng cách buộc mồi lửa sau đuôi rồi lùa vào dinh trại của giặc.
Trong thời Chiến quốc bên Tàu, quân Yên đã hạ hơn 70 thành của Tề, chỉ còn sót lại mỗi thành Cừ Tức Mặc. Tướng nước Yên là Điền Đan dùng mưu bắt 1000 con trâu đực khỏe mạnh, mình khoác áo đỏ vẻ nhiều màu sặc sỡ, sừng buộc gươm nhọn sắc. Đuôi buộc sẵn một bó cỏ khô tẩm dầu. Khi xuất trận quân Tề xua đàn trâu đi trước rồi đốt những bó cỏ khô buộc đuôi. Trâu bị nóng cuống cuồng chạy xông vào trận địch, khiến quân Yên hoảng sợ, rối loạn hàng ngũ, hoảng loạn xéo lên nhau mà chạy, chết rất nhiều. Thừa thắng Điền Đan chiếm lại được những thành trì đã mất.
Tác giả Khuyết danh có làm bài thơ nhắc đến tích này:

Con trâu già
Một nắm xương khô một nắm da
Bao nhiêu cái ách đã từng qua
Đuôi kia biếng vẫy Điền Đan hỏa
Tai nọ buồn nghe Ninh tử ca
Sớm thả đồng đào ăn đủng đỉnh
Tối về chuồng quế thở nghi nga
Có người đem dắt tô chuông mới
Ơn đức vua Tề lại được tha.

Bài thơ có nhắc thêm mấy sự tích như Ninh tử tức Ninh Thích lúc chưa gặp thời, đi chăn trâu thường nghêu ngao gõ sừng trâu mà ca lên chí lớn của mình. Sau gặp được vua Tề Hoàn công biết đến và trọng dụng. Sự tích tô chuông, ngày xưa khi đúc xong một quả chuông thì phải giết một con trâu làm lễ Hấn Chung tức Bôi Chuông. Lấy máu trâu bôi vào chuông, tiếng chuông đánh lên mới ngân nga và vang xa. Bài thơ trên nhắc đến việc vua Tề Tuyên công thấy người ta dắt trâu đi để giết lấy máu tô chuông, liền tỏ lòng thương và ra lệnh tha cho con trâu này khỏi bị giết.
Trong Việt sử có ghi chép chuyện Đinh Bộ Lĩnh cùng trẻ mục đồng cưỡi trâu tập trận trong thung lũng Hoa Lư. Lê Đại Hành lùa trâu cùng quân sĩ dàn dày đặc ở bờ sông Hoàng Long để chào đón và dọa dẫm tinh thần sứ thần nhà Tống.

Công dụng của trâu

Trâu là con vật rất quí đối với nhà nông nên ít ai đem ngã thịt để làm thức ăn, trừ khi trâu đã già yếu, mắt mờ, chân chậm, chưa ra sức đã “thở hồng hộc như… trâu” thì mới đành lòng đem đi mổ.
Thịt trâu màu hơi tái, không thơm ngon bằng thịt bò nhưng có vị mát rất tốt cho những người vượng hỏa. Da trâu dùng bịt trống. Bong bóng trâu sau khi tẩy mùi dùng làm bình đựng nước hay rượu rất tốt trong việc đi xa. Xương trâu dùng để nấu…xì dầu.

Sừng trâu có thể làm tù và và các vật trang sức như lược, hoa tai, tiện con cờ, mõ, cái hộp, tỉa cán quạt, cán dao.

Sừng trâu cũng có thể thay sừng tê giác làm thuốc. Hiện nay tê giác là loài động vật quí hiếm đang có nguy cơ tuyệt chủng, đã đưa vào danh sách đỏ và cấm săn bắt. Y học hiện đại đã có nhiều công trình nghiên cứu về tác dụng chữa bệnh của sừng trâu và kết quả cho thấy sừng trâu và sừng tê giác thành phần các chất hữu cơ và vô cơ tương đồng. Theo Đông y, sừng trâu vị đắng có tính hàn, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc lương huyết dùng chữa ôn bệnh sốt cao, hôn mê nói nhảm, kinh phong điên cuồng, các chứng xuất huyết như thổ huyết, nục huyết, ban xuất huyết…

Cũng vì sự quí hiếm của sừng tê giác nhất là đặc tính kỳ lạ của nó, người ta đồn nhau rằng con tê giác có khả năng giao cấu từ 2 đến 4 giờ đồng hồ và khả năng ấy đều dồn lên cái sừng của nó. Một ít bột mài từ sừng của nó cũng đủ khiến cho người nhược dương trở thành người đàn ông phi trường trong việc “phòng sự”, Viagra phải chào thua!

Giá một ký sừng tê giác giao động từ 50.000USD đến 20.000USD.
Các đại gia kháo nhau “ lúc trẻ bỏ sức kiếm tiền về già dùng tiền mua sức”, để vớt vát lại tuổi thanh xuân, các đại gia đua nhau lùng mua “thần dược” này để dùng cho bản thân và dành để chiêu đãi các quan lớn trong triều.

Chính vì vậy mà các ông bà trong các tòa đại sứ của Nhà nước ta ở Nam Phi ham làm giàu mau chóng bằng cách buôn lậu sừng tê giác mang về nước bán cho các quan lớn. Vừa mới đây, bà Vũ mộc Anh, Bí thư Thứ Nhất tại Nam phi bị bắt quả tang lúc mua bán sừng tê giác ngay trước Tòa đại sứ mới gọi là gan cóc tía coi pháp luật Nam Phi không ra cái thá gì. Khi bị giới truyền thông Nam Phi lên tiếng chỉ trích, bà Mộc Anh liền thi thố ngón võ gia truyền của bà Thúy Thanh và ông Lê Dũng là dài lưỡi ra chối lia, chối lịa rằng thì là em chả. Và luôn thề rằng: “Em mà có buôn lậu thì cho Bác Nông vật ngữa em ra đi! Mỗi tháng em bị hộc máu một lần!”. Cả một đống người trong tòa đại sứ cũng hùa nhau chối phăng, chối phắt rằng nhân viên chúng tôi đã được học tập rất kỹ đạo đức của “Bác” là thật thà, dũng cảm, không bao giờ làm chuyện xấu hổ nhục nhã như thế đâu. Đề nghị các ông chớ hồ đồ loan tin “trước khi mọi việc được điều tra rõ” mà làm mất đi sự hợp tác thân thiện đẹp đẽ của hai nước.
Đến khi truyền hình Nam phi chiếu trên ti vi cái mặt bèn bẹt của bà Mộc Anh hai năm rõ mười thì, theo tờ Tuổi Trẻ tường thuật, Ông đại sứ CSViệt Nam mới “lấy làm hối tiếc” dù “đã nhắc nhở nhiều lần” nhưng “vẫn xãy ra” và cho rằng hành vi của bà Mộc Anh là “hám lợi”. Về phần bà Mộc Anh thì cứ cương quyết không chịu nhận mình là buôn lậu và không chịu viết bản kiểm điểm nhận tội, cứ một mực nói là chỉ cầm dùm cho “người khác” thôi. Đến đây thì báo Tuổi Trẻ không dám nói rõ “người khác” đó là ai mà có quyền to có thể sai khiến bà Mộc Anh Bí thư Thứ nhất của Tòa đại sứ cầm dùm?

Cái gương bị mất chức và đi tù của PV Chiến cứ lù lù trước mặt.

Đây không phải là lần đầu nhân viên toà đại sứ CSVN bị bắt. Hai năm trước một nhân viên thương mại của toà đại sứ CSVN tên là Khánh Toàn cũng bị bắt về vụ buôn lậu sừng tê giác và bị “xử lý”.
Hiện nay bà Mộc Anh đã bị triệu hồi về nước để điều tra làm rõ để tìm cách… ngừa đẻ.
Thật là đẹp mặt cho cái chế độ ưu việt.

Con trâu trong ca dao tục ngữ

Trong hàng gia súc, có lẽ con trâu là được người nông dân thương yêu trìu mến nhất, ngay cả loài chó vốn được yêu quí vì đức tính trung thành cũng chưa được bằng. Trâu được nhắc nhở nhiều qua ca dao, thành ngữ.

Trong cách chọn lựa mua trâu phải chọn loại: Sừng cánh ná, dạ bình vôi, mắt ốc nhồi, Mồm gàu dai, tai lá mít, đít lồng bàn.

Và nên tránh những con: Xa rừng mắt lại nhỏ con, Vụng đàn chậm chạp ai còn mua chi
Áp dụng trong đời sống hàng ngày: Mua trâu xem vó, lấy vợ xem nòi - Muốn giàu nuôi trâu cái, muốn lụn bại nuôi chim bồ câu – Trâu năm sáu tuổi còn nhanh, Bò năm sáu tuổi đã tranh cõi già. – Trâu quá sá (quá tuổi) mạ quá thì – Trâu trắng đi đâu, mất mùa đến đấy. – Trâu he (gầy) cũng bằng bò khỏe. - Con trâu là đầu cơ nghiệp - Tậu trâu, lấy vợ cất nhà, trong ba việc ấy thật là khó thay…
Có những thành ngữ dùng trâu để ám chỉ về người như: Trâu chậm uống nước đục dùng để chế diễu những người chậm chạp nên thường bị thiệt thòi. Những người hiềm khích hay ghen ghét nhau thì có câu trâu cột ghét trâu ăn. Câu trâu lấm vấy quanh dành để chỉ những người làm sai nhưng hay đổ lỗi cho người khác. Những ai hay mơ làm chuyện hảo thì bị chế diễu là dắt trâu qua ống. Ngày xưa mấy anh lái trâu ưa có thói lường gạt theo kiểu mua trâu vẻ bóng. Vì vậy, cảnh mẹ chồng nàng dâu luôn xích mích thì câu thật thà như thể lái trâu, thương nhau như thể nàng dâu mẹ chồng thiệt thích hợp.

Ca dao tục ngữ về con trâu rất nhiều kể không xuể. Chừng nào hết cảnh trâu tìm cột chứ có bao giờ cột lại tìm trâu thì lúc ấy họa may dân gian mới hết nói về trâu.

Một chuyện tiếu lâm về trâu

Để độc giả xả hơi, thư giãn đôi chút vì từ nãy tới giờ theo dõi ba cái chuyện khô khan nhức đầu, người viết xin kể một chuyện tiếu lâm dân gian nơi chốn đồng quê có con trâu đi cầy để quí vị nghe chơi cho vui tí chút.

Một hôm nọ, anh sui trai góa vợ băng đồng sang làng kế cạnh để thăm đứa con gái đang làm dâu cho bà sui cũng đang góa chồng. Nhằm lúc hai vợ chồng đứa con còn đang ở ngoài đồng cấy lúa chưa về, bà sui đem rượu ra mời anh sui vừa nhâm nhi vừa nói chuyện để chờ bọn trẻ về rồi ăn cơm luôn thể.
Hai anh chị sui nói chuyện râm ran hồi lâu, tâm tình coi bộ vui vẻ lắm. Bỗng chị sui cao hứng đố anh sui:

- Nè anh sui! Đang lúc vui tui đố anh một câu để anh đoán thử nó là cái gì nghen!
- Ừa! Chị cứ đố để tui ráng đoán để trả lời chị. Anh sui cũng vui vẻ đáp lại.
- Vậy chớ đố anh, cái gì bằng bàn tay, xung quanh có lông, chính giữa có cái lỗ. Chị sui vừa nói vừa ra điệu bộ, dơ bàn tay khum khum, dứ dứ trước mặt anh sui. Anh sui nghe thấy vậy mới miệng cười chúm chím, trong bụng nghĩ thầm:
- Chà! Đố cái điệu này chắc chị sui có ý thả câu thòng mở đường sẵn cho mình trổ mòi “dê” đây.
Nghĩ xong, anh sui tằng hắng một cái để lấy giọng, rồi nói:
- Tui biết ý chị muốn đố cái gì rùi. Nhưng trước khi trả lời câu đố của chị, tui đố lại một câu trước đã, chị chịu hôn?
- Cũng được, anh đố đại đi.
- Ừa hén, chị nghe đây. Đố chị cái gì bằng cườm tay, nằm ngay cái của chị.
Anh sui cũng vừa đố vừa ra điệu bộ như chị sui lúc nãy. Anh đưa cánh tay mặt lên rồi co lại hình thước thợ, dứ dứ về phía chị sui. Miệng thì cười cười ra vẻ đắc ý. Không ngờ nghe xong, chị sui nổi giận đùng đùng, mắng như tát nước vô mặt:
- Nè anh sui! Tui tưởng anh là người đứng đắn đàng hoàng tui mới đố giởn với anh cho vui. Dè đâu anh là người mất nết, ba trợn, anh lại ăn nói bậy bạ với tui như vậy. Anh có muốn ăn chổi chà lên đầu không?

Anh sui đang hí hửng trong bụng dè đâu bị bà sui trở mặt mắng nhiếc tàn tê như vậy, đưa tay bợ miệng không kịp, mặt mày xụi lơ, cố chống chế mà không biết nói năng ra sao. Đúng lúc ông Lý trưởng trong làng đi ngang qua nghe hai người đang lớn tiếng bèn ghe vô coi thử chuyện gì. Được dịp, bà sui nhờ ông Lý phân xử dùm ai phải, ai quấy. Hai người theo ông Lý trưởng về đình làng để xử kiện.
Khi yên vị, Lý trưởng kêu bà sui kể lại đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong, ông Lý cũng tức cười, bèn hỏi:
- Vậy chớ cái mà bà đố ông ấy là cái gì?
- Dạ thưa nó là cái lỗ tai trâu!
- À há! Phải! Bằng cái bàn tay, xung quanh có lông, chính giữa có lỗ. Đúng là cái lỗ tai trâu. Ông Lý gật gù thích chí, quay sang hỏi anh sui:
- Còn anh kia! Cái anh đố nó là cái gì?
- Dạ thưa ông Lý, cái tui đố là cái sừng trâu ạ.
- Phải! Phải! Bằng cái cườm tay, nằm ngay cái của chị! Đúng là cái sừng trâu rồi chứ là cái gì nữa mà chị lại đi thưa ảnh? Thôi, tui xử huề. Hai người làm hòa với nhau, về nhà đi. Lấy câu “dĩ hoà vi quí” cho nó vui vẻ , đừng để mất tình sui gia.
Chi sui có vẻ chưa bằng lòng, vùng vằng bỏ đi te te một nước. Anh sui lật đật chạy theo, vừa thở hổn hển vừa gọi với:
- Chị sui ơi! Chờ tui với! Cám ơn chị nghen! Cám ơn chị lắm lắm!
Chị sui quay lại sắc mặt hãy còn giận, nói lẫy:
- Anh ngon rùi mà! Còn bày đặt nói mỉa, cám ơn tui làm chi cho má nó khi.
- Không phải như vậy đâu chị sui ơi! Tui cám ơn thiệt lòng mà. Hồi nãy mà chị nói cái lỗ tai ngựa thì chết tiá tui rùi!!!

Đầu trâu mặt ngựa

Cái loài thú có cái đầu trâu mà cái mặt lại giống ngựa này chúng ta chỉ nghe nói trong chuyện Mục Kiền Liên đi tìm mẹ ở dưới chín tầng địa ngục Âm phủ. Đó là thứ ngạ quĩ, lính của Diêm Vương, chuyên canh gác hỏa ngục và tra tấn trừng phạt những kẻ làm ác, làm bậy hại người lương thiện, ăn hiền ở lành lúc còn sống ở trần gian.

Mặt mày lũ đầu trâu mặt ngựa đều lộ vẻ hung quang, tay cầm đủ thứ binh khí nào là chỉa ba, cào cỏ, gươm giáo…

Thực tế, từ xưa đến giờ, chưa có một ai thấy chúng.

Nhưng kể từ ngày “Bác Hồ” đem cái “bàng môn tả đạo” của mấy lão phù thủy bên Nga La Sát về thì cái đám âm binh đầu trâu mặt ngựa này “ăn theo” kéo về đông đảo. Nhờ môi trường “máu và đầu lâu” của mấy trăm ngàn người vô tội chết oan ức trong vụ “Bác” thi triển đạo bùa “Cải cách ruộng đất”, sái đậu thành binh, để cào bằng xã hội theo phép bá đạo của hai lão đạo sĩ Giáo Mác và Ăn Ghen mà chỉ trong có mấy chục năm đã sinh sôi nẫy nở lên đông đảo vô cùng. Thường thường, bọn âm binh đầu trâu mặt ngựa này sống lén lút trong bóng tối vì chúng rất sợ ánh sáng mặt trời. Nhưng dạo sau này, chúng ngang nhiên xuất hiện nghênh ngang khắp nơi, tha hồ tác yêu tác quái, nhũng nhiễu dân lành, coi phép nước như cái củ thìu biu của chúng. Đó là do chúng được nuôi dưỡng và đặc biệt o bế của cái Tổng cục 2 hay 3 gì đó, có quyền “tiền trảm hậu tấu” rất ghê gớm. Nhà nước cộng sản Việt Nam sở dĩ còn tồn tại đến ngày hôm nay đều do cái đám âm bình này phò (độ) và hộ (trì).
Đặc điểm của loài đầu trâu mặt ngựa này là cái đầu không có óc để suy nghĩ phân biệt đúng sai, tốt xấu. Chúng chỉ biết nhắm mắt, cúi đầu triệt để thi hành mệnh lệnh của chủ. Loài này còn có đặc điếm nữa là trước mặt chủ thì đi bốn chân. Khi ra ngoài thì đi bằng hai chân, mặt thì cứ nghếch lên trời.
Quí độc giả muốn biết rõ mặt mũi và hành động của đám âm binh đầu trâu mặt ngựa này ra sao cứ xem mấy đoạn phim quay cảnh Nhà nước cộng sản Việt Nam dàn binh bố trận đánh cướp đất đai của ấp Thái Hà và Tòa Khâm Sứ Hà Nội trong mấy tháng vừa qua, hoặc cảnh dàn chào thanh niên, học sinh, sinh viên đi biểu tình chống giặc Tàu ô cướp nước hay cảnh dân oan kéo nhau đi khiếu kiện đất đai, sẽ được mãn nhãn.

Sấm ký của Học Lạc

Chúng ta thường nghe nói tới Sấm Trạng Trình lưu truyền trong dân gian. Lời sấm tiên đoán nhiều biến cố lịch sử mà có khi cả chục năm, trăm năm sau người dân mới thấy ứng nghiệm.
Chẳng hạn như câu:

Bao giờ lúa mọc trên chì, voi đi trên giấy tây thì về tây.
Lúc đương thời không một ai có thể hiểu và lý giải được vì sao lúa lại có thể mọc được trên chì và voi đi trên giấy. Còn tây về tây là nghĩa gì. Câu sấm này ám chỉ việc gì? Thật là bí ẩn.
Sau khi nước ta bị thực dân Pháp đô hộ suốt gần 100 năm, nhiều phong trào yêu nước nổi lên khắp nơi để đánh đuổi giặc Pháp, trường kỳ kháng chiến, mãi cho đến năm 1945 (?) Ngân hàng Đông dương chung của ba nước Việt, Miên, Lào cho phát hành đồng bạc bằng chì, mẫu tròn, một mặt có in hình nổi bụi lúa và tờ giấy bạc mệnh giá một trăm đồng, trên in hình con voi thì Pháp thua trận Điện Biên phủ, buộc phải rút quân về nước.

Lúc đó người ta mới vỡ ra cái ý nghĩa của câu sấm Trạng Trình.

Nhắc qua câu sấm của Trạng Trình, người viết muốn giới thiệu với quí độc giả một người khác cũng có tài tiên tri mà lâu nay ít người lưu ý. Người này cũng có sấm ký lưu lại gần cả trăm năm, tiên đoán rằng nước ta sẽ dần dà suy thoái về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế nhất là về văn hóa bị biến thành một nền văn hóa nhai lại, giống như trâu, nhai 70 năm một chủ thuyết lỗi thời bị vất bỏ vào giỏ rác lịch sử, không biết mệt và chán, kéo lùi cả dân tộc trở về thời sơ khai.
Đó là Học Lạc. Học Lạc là ai vậy?

Học Lạc tên thật là Nguyễn văn Lạc (1842-1915) biệt hiệu là Sầm Giang, người làng Mỹ Chánh, thuộc tỉnh Mỹ Tho, nay là tỉnh Tiền Giang. Học Lạc tuy nhà nghèo, nhưng nhờ có trí thông minh nên được tuyển thẳng vào ngạch học sinh, ngạch do triều đình nhà Nguyễn đặt ra, được cấp lương và được học tại trường của quan đốc học địa phương. Do đó, người ta mới gọi là “học sinh Lạc”, dần dần bỏ mất chữ “sinh”, còn lại hai chữ “Học Lạc”. Học Lạc học giỏi nhưng thi mãi vẫn không đậu, sau đó triều đình Huế phải ký hòa ước 1862 nhường đứt ba tỉnh miền Đông cho Pháp, nên Học Lạc bỏ thi luôn, bỏ làng Mỹ Chánh, dời nhà về chợ Thuộc Nhiêu (Mỹ Tho) chọn nghề dạy học và bốc thuốc để sinh sống cho hết đời.

Ông thường làm thơ trào phúng, châm biếm như Chu Mạnh Trinh, Trần Tế Xương, Nguyễn Khuyến..
Ví dụ như bài “Thằng Lạc”, khi bị các quan viên đình làng bắt phạt chỉ vì không có danh thiếp gắn trên các phẩm vật của mình mang tới cúng đình. Ai ai cũng có tấm danh thiếp đề tên như: Đại Hương Cả, Hương Trưởng, Hương Chủ, Hương Thân… còn trên mâm xôi của ông chỉ có mảnh giấy ghi hai chữ “Thằng Lạc”. Làng bắt vạ, phải làm bài thơ tạ lỗi, lấy ngay hai chữ “Thằng Lạc” làm đề tài. Ông ứng khẩu đọc ngay:

Vành mâm xôi tên đề Thằng Lạc
Nghĩ mình ti tiểu không đài các
Văn chương chẳng phải bọn mèo quào
Danh phận không ra cái cốc rác
Đã chẳng bơ phờ thẹn núi sông
Dám đâu vút vắt ngạo cô bác
Sự tình ai có thấu cùng chăng
Trong có ông Thần, ngoài cặp hạc.

Hội đồng Hương ai cũng chịu là bài thơ hay lại gieo vần trắc rất ác nên bằng lòng tha tội.
Hiện nay ở Sài Gòn vẫn còn có con đường mang tên ông: Học Lạc.
Trở lại với tài tiên tri của Học Lạc, người viết xin đan cử ba bài sấm ký sau đây để làm đề tài “Đố vui có thưởng” gửi đến quí vị ngẫm chơi trong ba ngày Tết tha phương, nhớ nhà buồn thúi cái “khúc ruột ngàn dặm”.

Bài 1.

Con Tôm
Chẳng phải vương công chẳng phải hầu
Học đòi đái kiếm lại mang râu
Khoe khoang mắt đỏ trong dòng bích
Chẳng biết mình va cứt lộn đầu…

Bài 2.

Chó chết trôi
Sống thời bắt thỏ, thỏ kêu rêu
Thác thả dòng sông xác nổi phều
Vằn vện sắc còn phơi lẩn dẩn
Thốt tha danh hỡi nổi lêu bêu
Tới lui bịn rin bầy tôm tép
Đưa đón lao xao, lũ quạ diều
Một trận sóng dồi cùng gió dập
Tan tành xương thịt biết bao nhiêu!

Bài 3.

Con trâu
Mài sừng cho lắm cũng là Trâu
Ngẫm lại mà coi thật lớn đầu
Trong bụng lam nham ba lá sách
Ngoài cằm lém đém một chòm râu
Mắc mưu đốt đít tơi bời chạy
Làm lễ bôi chuông nhớn nhác sầu
Nghé ngọ già đời quen nghé ngọ
Năm dây đàn gẩy biết chi đâu.

Câu đố là: Ba bài sấm ký trên nhà tiên tri Học Lạc đã tiên đoán về giai đoạn lịch sử nào? Ba con vật được nhân cách hóa ám chỉ ai?
Ai đoán và giải tương đối trúng nhất sẽ được thưởng một cái sừng tê giác “o ri gin” vừa mới đem từ Nam Phi về và sẽ do bà Vũ Mộc Anh Bí thư Thứ nhất của Tòa đại sứ Nam Phi trao tặng với sự chứng kiến của toàn bộ ban bệ Bắc Bộ phủ. Buổi lễ trao giải sẽ được tổ chức long trọng y như lễ trao huy hiệu “60 năm tuổi đảng” cho bà Nguyễn thị Bình vậy.

Tử vi Kỷ Sửu

Cuối cùng cuộc cà kê dê ngỗng về con trâu mà không có mục coi bói, xem tử vi tuổi Kỷ Sửu thì cũng kém phần vui nhộn. Người viết xin lượt chép lại vài hàng tử vi sưu tầm được cho những ai thuộc tuổi con trâu:

1.- Nam mạng:
Tuổi Kỷ Sửu thuộc mạng Hỏa. Tánh nóng nảy hay có những hờn dỗi vô lý làm cho cuộc sống thiếu cả tình cảm bạn bè. Lúc còn nhỏ không được may mắn lắm nhưng về sau có tương lai đẹp. Số có phú quí nhưng lại đau khổ về tình duyên, gia đạo.
Tình duyên:
Tuổi Kỷ Sửu có số đào hoa nhưng có nhiều lúc thăng trầm. Tình duyên long đong ở tuổi 21, 22, 23. Nếu ai sanh trong những tháng 2, 3 và 9 Âm lịch sẽ có đến đời vợ thứ ba mới có hạnh phúc.
Gia đạo và công danh:
Công danh và cơ hội phát triển lên cao vào những năm 20 đến 25 tuổi. Hy vọng sẽ hoàn toàn thành công ở tuổi 27. 28. Về gia đạo, số phải sống cô độc nhiều hơn là sống êm ấm trong gia đình.
Sự nghiệp tiền tài.
Tuổi Kỷ Sửu hoàn thành sự nghiệp vào tuổi 29, 30 nhưng qua 31 và 33 lại bị đổ võ hoàn toàn vì quá tin bạn nhất là thất bại vì đàn bà.
Những tuổi hạp cho làm ăn: Canh Dần. Quý Tỵ,Giáp Ngọ, Bính Thân, Mậu Tý, Đinh Hợi giúp bạn thành công hơn.
Những tuổi đại kỵ: Tân Mão, Đinh Dậu, Mậu Tuất, Quý Mão, Bính Tuất, Ất Dậu.

2.- Nữ mạng:
Cuộc đời: Cuộc đời nhiều cay đắng lúc nhỏ nhưng cuộc sống có nhiều triễn vọng tốt đẹp ở hậu vận. Cuộc sống lên cao bắt đầu từ 24 trở đi.
Tình duyên: Tuổi Kỷ Sử tình duyên đối với nữ mạng là vấn đề nan giải, gặp rất nhiều trở lực trong cuộc đời. Những ai sinh trong tháng 3,6,8 và 10 Âm lịch phải ba lần thay đổi mới có hạnh phúc. Sanh vào những tháng 2,4,7,9 và 11 Âm lịch thay đổi 2 lần. Nếu may mắn sanh trong tháng 1, 5 và 12 Âm lịch thì cuộc đời hoàn toàn hạnh phúc.
Gia đạo công danh:Gia đạo được đầy đủ và nhiều thương yêu. Công danh có nhiều tốt đẹp trong tương lai. Rất hạp với sự buôn bán./.


Nguyễn Thanh Ty

Trích Người Việt Boston


No comments: