Translate

Wednesday, November 9, 2011

“Tái cấu trúc”: “ai” tái cấu trúc “ai”?

Theo Dân Làm Báo

Thật sai lầm khi coi nhà nước hiện hành như một kẻ bảo vệ toàn trí toàn năng cho toàn bộ hoạt động kinh tế. Song cũng thật không đúng khi chấp nhận nhà nước hiện hành, cái chính thể vốn đang bị các nhóm lợi ích làm cho bệ rạc, như một hiện thực không thể thay đổi và do đó đánh mất hy vọng chinh phục bài toán xây dựng một trật tự chính trị - kinh tế thích đáng. Sự phụ thuộc lẫn nhau của trật tự chính trị và trật tự kinh tế buộc chúng ta phải tìm cách xử lý cả hai cùng lúc. Cả hai đều là những bộ phận của cùng một trật tự hoàn chỉnh. Nếu thiếu một trật tự cạnh tranh sẽ không tồn tại một chính phủ có khả năng hành động; và nếu thiếu một chính phủ như thế thì sẽ không có trật tự cạnh tranh nào cả. -Walter Eucken[[1]], Grundsätze der Wirtschaftspolitik (Những nguyên lý về chính sách kinh tế, 1952) 

“Tái cấu trúc nền kinh tế” đang là câu nói cửa miệng của nhiều người, nhiều giới trong xã hội Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, kèm theo đó lại là câu hỏi mà dường như chưa có câu trả lời thoả đáng, ít nhất là từ phía Chính phủ, là tái cấu trúc như thế nào và bắt đầu từ đâu? Bài học lịch sử cho chúng ta thấy rằng, nếu không có cải cách chính trị thì sẽ chẳng có cải cách kinh tế thực chất nào ở đây cả, và sau khi đi hết một vòng luẩn quẩn, mọi chuyện không chỉ rồi đâu sẽ hoàn đấy mà còn diễn ra theo chiều hướng ngày một xấu hơn, đồng thời kéo theo nhiều hệ luỵ xã hội khác. 

Lao động để tạo ra giá trị - những hàng hoá hay dịch vụ đáp ứng nhu cầu của con người hay xã hội - là hoạt động cơ bản của con người. Cho đến nay, nhân loại mới biết đến thị trường cạnh tranh như là cơ chế định giá chính xác nhất và hữu hiệu nhất đối với giá trị của hàng hoá và dịch vụ do con người tạo ra trong sự phân công lao động của xã hội. Rốt cuộc, người ta có thể không sinh con đẻ cái (một nhu cầu cơ bản theo bản năng) chứ không thể không tham gia vào một hoạt động nào đó để tạo ra giá trị, phục vụ cho nhu cầu của con người hay xã hội, qua đó đáp ứng nhu cầu cuộc sống ngày một cao hơn của bản thân. Vì vậy, trật tự kinh tế (khuôn khổ mà ở đó các quyết định kinh tế được đưa ra), chi phối quá trình kinh tế (nơi diễn ra hoạt động tạo ra các hàng hoá và dịch vụ cho xã hội), chính là trụ cột của trật tự xã hội, trong đó có trật tự chính trị. 

Ngược dòng thời gian, sự thay đổi của các hình thái xã hội, từ xã hội cộng sản nguyên thuỷ, sang chế độ chiếm hữu nô lệ, đến chế độ phong kiến rồi chế độ tư bản chủ nghĩa, thảy đều hướng tới một mục đích giống nhau: một kiến trúc thượng tầng phù hợp hơn với trật tự kinh tế tự tiến triển trong lòng xã hội. Điều đó có nghĩa kinh tế chính là nguyên nhân sâu xa của những biến chuyển diễn ra trong xã hội, quyết định sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng. 

Lịch sử thế giới hiện đại càng cho chúng ta thấy rõ điều đó. Cuộc cách mạng vô sản ở Nga diễn ra trong bối cảnh của một nước Nga Sa hoàng kiệt quệ về kinh tế, để rồi hơn 70 năm sau, đế chế Soviet lại sụp đổ cũng vì lý do tương tự. Các nước XHCN khác lần lượt đi đến chỗ sụp đổ đều với căn nguyên chủ yếu là kinh tế. Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam cũng bắt nguồn từ một nguyên nhân sâu xa là kinh tế, khi mà nạn đói cùng năm đó đã gây ra cái chết cho hơn hai triệu người dân vô tội. Công cuộc “đổi mới” ở Việt Nam bắt đầu từ năm 1986 diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế đã rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Ngoài những căn nguyên sâu xa khác trong lòng xã hội, nguyên nhân trực tiếp dẫn đến phong trào dân chủ Mùa Xuân Ả-rập đang diễn ra hiện nay chính là về kinh tế. 

Trước khi đi đến sụp đổ, hầu hết các nước XHCN ở Đông Âu cũng đã thực hiện những cải cách về kinh tế, đó là sự áp dụng cái gọi là “chủ nghĩa xã hội thị trường” (market socialism). Các cuộc cải cách đó đều thất bại do không một bước cải cách nào diễn ra ở thượng tầng chính trị. Và những gì mà đất nước chúng ta đang phải trải qua ở giai đoạn hiện nay chính là do cải cách chính trị đã không song hành với cải cách kinh tế, không đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn kinh tế nước nhà. 

TS Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế TW, đã đưa ra nhận định thẳng thắn trong cuộc hội thảo về các vấn đề kinh tế vĩ mô do Uỷ ban Kinh tế của Quốc Hội tổ chức vào cuối tháng 9/2011: “Không nghi ngờ gì nữa, tình hình KT-XH nước ta đang ở trong tình trạng xấu nhất từ năm 1991 đến nay.”[[2]

Ngày nay, trong một thế giới đang ngày càng “phẳng” hơn và cạnh tranh gay gắt hơn, cạnh tranh kinh tế không còn bó hẹp trong phạm vi giữa các chủ thể kinh tế như cá nhân hay doanh nghiệp với nhau, mà nó còn diễn ra giữa các địa phương với nhau trên bình diện quốc gia và giữa các chính phủ với nhau trên bình diện quốc tế, hay chính xác hơn là cạnh tranh giữa các hệ thống thể chế với nhau (nhằm thu hút các nguồn lực [nguồn vốn, công nghệ, v.v.] trong nước và trên trường quốc tế; nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, nâng cao khả năng cạnh tranh, v.v.). Việt Nam chúng ta đang ngày càng hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, ngày càng hiểu ra thế nào là cạnh tranh quốc tế và cạnh tranh giữa các hệ thống thể chế. 

Như vậy, áp lực cải cách đối với chính thể hiện nay ở Việt Nam không chỉ bắt nguồn từ nguyên nhân nội tại của nền kinh tế mà nó còn xuất phát từ bối cảnh của thế giới bên ngoài, sự cạnh tranh của các nền kinh tế khác. Nền kinh tế Việt Nam chắc chắn sẽ không thể “cất cánh” nổi để “sánh vai với các cường quốc năm châu” nếu vẫn cứ phải cõng trên lưng bộ máy ăn bám khổng lồ (Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ Quốc, đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội…). Điều này càng đặc biệt đúng khi phần lớn trong số đó lại không chỉ là ăn bám mà còn ăn hại. Với đồng lương công chức bèo bọt, với cơ chế giám sát quyền lực lỏng lẻo (trên thực tế hầu như không tồn tại) và với trách nhiệm giải trình mơ hồ, chính họ đang xâu xé nền kinh tế nhiều hơn là góp phần thúc đẩy nó phát triển một cách lành mạnh và bền vững. Vì vậy, nếu không sớm đổi mới, Việt Nam sẽ không những không bắt kịp các nước khác trong khu vực và trên thế giới mà còn đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn. 

Nền kinh tế thị trường vận hành dưới sự dẫn dắt của “bàn tay vô hình”, đó là các quy luật của thị trường. Cạnh tranh là hoạt động đặc trưng và là động lực cơ bản của kinh tế thị trường. Vai trò tích cực của chính phủ trong nền kinh tế thị trường chính là sự can thiệp của chính phủ bất cứ ở đâu và bất cứ khi nào mà cạnh tranh kinh tế không diễn ra bình thường và lành mạnh. Nếu đi quá giới hạn đó thì chính chính phủ lại phá vỡ cơ chế cạnh tranh của thị trường, làm méo mó các tín hiệu thị trường và cơ chế phân bổ nguồn lực hữu hiệu của nó. Hậu quả là nền kinh tế phát triển lệch lạc và cuối cùng là rơi vào trạng thái trì trệ, thậm chí khủng hoảng, từ đó gây ra những hệ luỵ xã hội khác. Đây là thông điệp từ cuộc khủng hoảng nợ công hiện nay ở Châu Âu nói chung và ở Hy Lạp, Iceland hay Bồ Đào Nha nói riêng. Đây cũng chính là bài học từ nền kinh tế “đang ở trong tình trạng xấu nhất từ năm 1991 đến nay” của chúng ta. Và nếu như phong trào “Chiếm Phố Wall” đang diễn ra ở Mỹ phát đi thông điệp gì thì đấy chính là sự cần thiết phải xem lại vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trường; sự can thiệp của chính phủ vào thị trường nhiều khi khiến cho nền kinh tế vận hành lệch lạc và tạo thêm bất công hơn là góp phần giảm bớt bất công trong xã hội, cho dù là ở nền kinh tế phát triển bậc nhất thế giới và ở nơi mà quyền lực chính phủ bị giám sát và chế ước chặt chẽ như nước Mỹ: chính các đạo luật của các cựu tổng thống Bill Clinton và George W. Bush đã góp phần tạo ra sự hỗn loạn cho thị trường tài chính, dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ,[[3]] và các gói cứu trợ mà chính phủ Mỹ dành cho các định chế tài chính lớn sau đó đã khiến dân chúng bất bình, gây chia rẽ trong xã hội Mỹ. Tóm lại, chính phủ cần phải hạn chế can thiệp vào thị trường và khi can thiệp thì phải thận trọng với những hiệu ứng phụ của chính sách, vốn khó lường và dễ khiến cho chính sách phản tác dụng. 

Friedrich A. Hayek, nhà kinh tế học kiêm triết gia xã hội vĩ đại nhất thế kỷ 20, từng nhận định: “Chúng ta chưa bao giờ thiết kế được hệ thống kinh tế của mình. Chúng ta không đủ thông minh để làm điều đó” (Friedrich A. Hayek, The Political Order of a Free People, 1979). Chính phủ nào trên thế giới mà chẳng muốn các doanh nghiệp trong nền kinh tế của mình làm ra được những sản phẩm “hoành tráng” như Boeing, Airbus hay những nhãn hiệu ô tô hàng đầu thế giới. Song họ lại không làm điều đó, đơn giản là họ phải tuân theo các quy luật của thị trường, tuân theo cơ chế phân công lao động hữu hiệu của thị trường thế giới. 

Như vậy, cụm từ “tái cấu trúc nền kinh tế” mà ngày ngày vẫn xuất hiện trên các mặt báo và nằm ở cửa miệng của nhiều người, nhiều giới ở Việt Nam hiện nay thực chất chỉ là cách nói khiên cưỡng thôi. Chính nền kinh tế thị trường, tuân theo các quy luật của riêng nó, sẽ tự (tái) cấu trúc nó. Và nếu có một tác nhân “tái cấu trúc” nào ở đây thì đấy là chính nền kinh tế thị trường: nó đã, đang và vẫn sẽ tiếp tục “tái cấu trúc” chính phủ theo nghĩa hẹp và hệ thống thể chế của một quốc gia theo nghĩa rộng nhằm đạt tới một trật tự chính trị tối ưu, tạo điều kiện cho sự vận hành hiệu quả của nền kinh tế. Nếu chính phủ không tự chủ động thay đổi, đi trước mở đường cho sự phát triển bền vững và lành mạnh của nền kinh tế thì sớm muộn gì nó cũng bị thị trường “tái cấu trúc”, mà đến lúc ấy thì đất nước đã phải trả một cái giá không hề nhỏ. 

Ngày nay, khi mà người dân ngày càng ý thức rõ hơn về quyền của mình và trách nhiệm của chính phủ, khi mà các phương tiện truyền thông đại chúng đã lan đến mọi ngóc ngách của xã hội, người dân chắc chắn sẽ không đợi đến lúc không còn gì để mất mới chịu đứng lên đòi hỏi chính phủ phải thay đổi để đáp ứng nguyện vọng chính đáng của mình. Phong trào dân chủ Mùa Xuân Ả-rập đang diễn ra ở Trung Đông hiện nay chính là minh chứng hùng hồn cho nhận định đó. 

Trong bối cảnh của Việt Nam hiện nay, chừng nào mà Chính phủ còn coi kinh tế Nhà nước là thành phần “chủ đạo”, chừng nào mà Chính phủ còn lăm lăm những “quả đấm thép”[[4]] để “điều tiết vĩ mô nền kinh tế”, chừng nào mà Chính phủ còn tiếp tục thọc tay quá sâu vào thị trường,[[5]] chừng nào mà các cơ quan Đảng còn trưng câu thần chú “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng” để biện minh cho sự can thiệp tuỳ tiện và vô pháp luật vào mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội của đất nước (như “Kết luận của Bộ Chính trị”, “Chỉ thị của Ban Bí thư”[[6]], “Kết luận của Thường vụ Tỉnh uỷ”, v.v.), chừng đó các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước còn phải “tái cấu trúc” tư duy của mình để tiến hành cải cách chính trị trước khi mơ màng đến sự thành công của một cuộc “tái cấu trúc” nền kinh tế./. 

No comments: