Quỳnh Chi, phóng viên RFA
2011-11-14
Ở thập niên thứ hai của thế kỷ 21, ít ai ngờ rằng “người tiền sử” vẫn còn tồn tại. Đó là câu chuyện của ba cha con ông Sùng A Páo, một người dân tộc Mông đã sống như “người cổ đại” gần cả một đời người trong hang đá trên núi Mông ân, huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng.
Ông Sùng A Páo (khoảng 60 tuổi) ngồi chồm hổm bên mâm cơm cùng với hai đứa con là Sùng A Lự (7 tuổi) và Sùng A Đại (3 tuổi). Cách ba cha con ông Páo ăn cơm cũng chẳng khác người tiền sử là mấy. Có lẽ trong suy nghĩ của ba cha con ông, ăn chỉ là hành động dùng tay đưa thức ăn vào miệng; còn cách ăn như thế nào, là điều ông chưa bao giờ nghĩ đến. Thấy ống kính phóng viên chỉa vào, ông vừa ngượng ngịu, vừa sợ sệt, lạ lẫm, ngạc nhiên và tò mò. Có lẽ ông cũng chẳng hiểu được vì sao người ta lại đến xem ông nhiều như vậy. Thầy Trần Duyên Hải, giám đốc TT Dạy nghề Nhân đạo cho biết:
-“Thứ nhất, ông ấy ở rừng lâu năm, nên tiếp thu rất kém. Ví dụ như đã dặn ông là khi thấy cổng nhà thì đi vào nhưng thấy đường phố lạ thì lại quên mất và đi lạc đến 2 ngày mới thấy. Thứ hai, sinh hoạt trên rừng khác. Khi ở đấy thì ông Páo không hề giặt giũ gì cả, nên khi về đây thì được dạy cách giặt giũ, nên ông cũng lóng ngóng. Hay là phải dạy ông ta đánh răng chẳng hạn. Thứ ba, tập quán ăn uống của họ cũng khác mình nên bây giờ vẫn cho ba cha con ăn riêng một mâm”.
“Hang đá tiền sử”
Ba cha con ông Páo mới vừa được Trung tâm dạy nghề nhân đạo ở Hà Nội đưa về nuôi nấng, bắt đầu một cuộc sống “văn minh”, một từ tiếng Kinh mà ông già người Mông này vừa được học nhưng còn chưa hiểu hết nghĩa của nó. Trước khi được đưa về Hà Nội, chỉ cách đây hơn 2 tuần, ba cha con ông Sùng A Páo còn chưa thấy được một chiếc xe ô tô và chưa từng nghĩ thế giới rộng hơn cái hang đá mà ông sinh sống trên núi Mông Ân.Bảo Lâm là một huyện miền núi hẻo lánh của tỉnh Cao Bằng, xã Mông Ân là một xã thưa thớt của huyện. Băng qua những con đường dài hàng chục km đến những ngọn núi chênh vênh ở Mông Ân với những ngôi nhà nằm lưa thưa vắt vẻo trên cao, mới thấy miền đất này như là nơi cùng cực của sự hoang vắng, đìu hiu…và tất cả những từ ngữ khó gọi gọi tên khác. Ở nơi ấy, bên một hang núi Mông Ân cô độc, ba cha con ông Sùng A Páo lặng lẽ sống. Gọi đây là một cái hang cũng sai mà gọi là một vách núi cũng không đúng. Nó chỉ là một vách núi thõm một lỗ cạn, bên trên bạc ngàn tre dại rì rào, trước mặt là thung lũng hút sâu. Ông Páo dựng một tấm bạc nẹp tre che cái hang rất cạn ấy, như một cái “ổ” (vâng, có lẽ đây là từ ngữ thích hợp nhất) sống vắt vẻo bên những vách đá tai mèo sừng sửng. Thầy Trần Duyên Hải kể lại cảm xúc của mình khi tận mắt chứng kiến cái hang của cha con ông Páo:
Không thể tưởng tượng được. Đó là một cái hang nông, chứ nếu hang sâu thì tránh rét, tránh nóng được. Ông chỉ che một tấm bạc cũ, vào trong “nhà” thì không có một thứ gì cả, ngoài những sợi mì còn vươn vãi. Hai thằng con thì gầy, ông ấy cũng thế-“Không thể tưởng tượng được. Đó là một cái hang nông, chứ nếu hang sâu thì tránh rét, tránh nóng được. Ông chỉ che một tấm bạc cũ, vào trong “nhà” thì không có một thứ gì cả, ngoài những sợi mì còn vươn vãi. Hai thằng con thì gầy, ông ấy cũng thế”.Thầy Trần Duyên Hải
Ông Páo già nua gầy đét như thanh củi cháy xém, quanh năm mặc độc một bộ đồ màu sẫm. Nhìn từ xa, dáng ông Páo nhỏ thó, còng quắc chẳng khác nào một con quạ đen. Ông Páo đơn giản như rẫy ngô trên nương. Bản thân bao nhiêu tuổi, về cái hang núi ấy sống từ bao giờ, ông cũng không nhớ. Ông chỉ biết rằng mình từng có một cái nhà rách nát nhưng đã bán lấy 80 ngàn đồng để trả nợ và để đổi lấy hai chai rượu uống. Ông cũng nhớ rằng mình từng có 3 người vợ. Hai người vợ trước đã chết. Cô vợ thứ ba của ông sinh năm 1984, hơi ngờ nghệch. Hằng ngày, cô vợ cõng củi xuống thị trấn Pác Miều bán kiếm tiền đong gạo nuôi ông Páo, nuôi mình và nuôi ba đứa con. Mặc dù ngờ nghệch nhưng vì mới ngoài tuổi 20, nên trông cô vợ ông Páo còn tươi tắn, khỏe mạnh như dòng thác dưới trung lũng. Chính sự ngây thơ và trẻ trung ấy mà vợ ông Páo mặc dù không thể làm một đóa hoa quỳ trên bản, cũng là một đóa hoa chuối trên đồi khiến nhiều kẻ thèm thuồng.
Cách đây mấy năm, trong một lần đi đổi củi dưới thị trấn, cô vợ trẻ này bị người ta lừa qua Mèo Vạc và bán sang biên giới chỉ bằng một tô phở và một bộ quần áo mới.Cách đây mấy năm, trong một lần đi đổi củi dưới thị trấn, cô vợ trẻ này bị người ta lừa qua Mèo Vạc và bán sang biên giới chỉ bằng một tô phở và một bộ quần áo mới. Lang thang đi tìm vợ ở thị trấn, ông Páo ngơ ngác, tiu nghỉu khi được người ta mách lại là vợ ông “đã bị những người đi xe gắn máy lừa bán sang Trung Quốc rồi. Không biết đâu”. Cũng từ đó, Sùng A Lự, mới vài tuổi đầu tuổi thay mẹ trở thành tiều phu trong khi cha nó vào rừng đốn củi. Còn em nó, Sùng A Đại trở thành đứa bé ăn cơm với ớt thay sữa, nằm khóc ngao ngao.
Hằng ngày, ông Páo đi đốn cây rừng, dùng nêm gỗ bóc cây làm củi như cách người nguyên thủy vẫn làm. Không có búa, không có cưa, ông Páo chỉ có thể tách thân cây thành những khúc củi dài 2 mét. Mỗi ngày, A Lự lếch thếch tha bó củi to hơn nó, cao hơn nó cả sải tay đi từ ngọn núi này qua ngọn núi khác để đến thị trấn. Thầy Hải kể về đoạn đường vác củi của A Lự:
-“Tôi đi từ chợ thị trấn đến hang núi ấy là khoảng 14 cây số. Em Lự đi đường tắt có thể ngắn hơn. Em vác bó củi rất to, nhưng vì mưu sinh nên em ấy quyết tâm mang cho bằng được”.
-“Ngày bình thường, Lự đi bán củi được 10 ngàn, đổi thành 2 gói mì. Về nhà, ba cha con nấu lên ăn chung với ớt”.
Ngày bình thường, Lự đi bán củi được 10 ngàn, đổi thành 2 gói mì. Về nhà, ba cha con nấu lên ăn chung với ớtA Lự không đi đường chính, vì đường chính sẽ xa hơn, mất cả 15 km. A Lự đi đường chim bay, mất chỉ 10 km nhưng phải leo qua các ngọn núi cao. Có đoạn núi dốc quá, A Lự leo như dựng ngược, rách cả đôi dép tổ ong. Nhìn Lự vác bó củi vật vả trên những ngọn núi tai mèo nhọn hoắc, chẳng khác một chú kiến tha miếng mồi to.
Chính vì thế mà A Lự đói xỉu, té ngã lăn đùng trên đường đi là chuyện bình thường. Những lúc bụng đói, trời giông, A Lự vẫn cặm cụi và lầm lũi làm cái công việc của người tiều phu vì hơn ai hết, Lự hiểu rằng nó phải cõng củi đến được thị trấn đổi lấy 2 gói mì làm thức ăn của ngày hôm đó. Thức ăn của ba cha con cũng toàn là đu đủ và ớt hái trong rừng. Vậy mà cũng có lúc cha con A Lự không tìm ra được một hạt gạo, một sợi mì để ăn với ớt. A Lự sợ đói lắm.
Có lần không đổi được mì, ba cha con Sùng A Lự nhịn đói suốt ba ngày đêm, chỉ uống nước ở cái thác trong rừng mà sống. Có lẽ vì thiếu dinh dưỡng mà tóc A Lự và A Đại cứ đỏ hoe, yếu ớt. Đến nỗi người ta từng nghĩ rằng, điều may mắn của duy nhất của những đứa trẻ này là chúng có một cái tên. Tên là cái duy nhất phân biệt A Lự với con thú kiếm ăn trong rừng.
Thực ra, A Lự còn có một đứa em trai, nhưng cách đây vài năm, nó ăn trúng cá ương mua ở thị trấn, đi ngoài và chết. Nhìn cách sống như người tiền sử của ông Sùng A Páo, người ta cũng không dám hỏi ông chôn đứa con ấy như thế nào.
Thực ra, A Lự còn có một đứa em trai, nhưng cách đây vài năm, nó ăn trúng cá ương mua ở thị trấn, đi ngoài và chết. Nhìn cách sống như người tiền sử của ông Sùng A Páo, người ta cũng không dám hỏi ông chôn đứa con ấy như thế nào.Ngoài ông Páo và A Lự còn được mặc quần áo, A Đại đã lên ba mà cứ thế cởi truồng. Hàng ngày, thằng bé lấm lem này tìm trò vui bằng cách bò trườn bên mép vực thẳm trước hang, cũng là nơi giải quyết các nhu cầu tự nhiên của ba cha con. Có lúc, đói quá không đứng dậy nổi, A Đại nằm lăn lóc khóc chỏng chơ như con rùa nhỏ bị lật ngược; đến nỗi người ta tưởng tượng rằng chỉ một cơn gió giật của miền đá này cũng đủ làm A Đại lăn nhào xuống thung lũng.
Trừ A Lự hay xuống phố đổi gạo, ông Páo và đứa con còn lại cũng chẳng đi đâu ngoài cái hang đá rộng không quá 2 mét ấy. Không giặt giũ, không dép giày, không bật lửa, không giấy tờ tùy thân, không hộ khẩu. Ông Páo chỉ biết chặt cây, bó củi và A Lự chỉ biết đổi mì. Ngoài những nhu cầu tự nhiên, ngoài cái hang đá tai mèo, và ngoài cánh rừng đầy cây cối, có lẽ cha con ông Páo cũng không còn biết đến một điều gì nữa.
Thoát khỏi hang núi Mông Ân
Rồi câu chuyện “hang đá tiền sử” của cha con ông Páo được một số người biết đến, trong đó có Trung tâm dạy nghề nhân đạo mà thầy Trần Duyên Hải làm giám đốc. Cách đây ba tuần, thầy Hải mang xe ô tô leo dốc lên hang núi Mông Ân đón cha con A Páo về Hà Nội. Từ khi bị mất người vợ trẻ, ông Páo luôn cảnh giác với người lạ và những chiếc xe động cơ. Nhìn thấy chiếc ô tô, ông Páo nằng nặc không chịu đi theo về miền xui. Còn A Lự thì khóc thét vì lần đầu thấy “con trâu to quá”. Thầy Hải kể lại:-“Khi đón ông ấy về, rất vất vả. Vì ông ấy rất sợ, tôi phải nhờ một người Mông làm việc ở xã thuyết phục. Khi đi thì đứa con ông ta lại khóc thét lên vì lần đầu tiên đi ô tô, cứ nói là con trâu này to quá”.
Hiện tại, thầy Hải dạy tiếng Kinh cho ông Páo, dạy ông cách ăn uống, tắm rửa, giặt giũ và cũng sắp xếp cho Sùng A Lự, Sùng A Đại đi học, ông nói:
Bữa cơm đầu tiên ở Hà Nội, hai thằng bé ăn kinh khủng, ăn như chưa từng được ăn. Chúng há mồm thật to, gắp thật nhiều thức ăn-“Bữa cơm đầu tiên ở Hà Nội, hai thằng bé ăn kinh khủng, ăn như chưa từng được ăn. Chúng há mồm thật to, gắp thật nhiều thức ăn”.Thầy Trần Duyên Hải
-“Phải dạy ông những từ dùng để chào hỏi, “ăn cơm”, dạy ông ta giặt quần áo. Bây giờ ông ta giao tiếp khá hơn, nhưng chưa được thông thạo, vẫn còn xưng “tao”.
Đến Hà Nội, cha con ông Páo bắt đầu biết có một thế giới, nơi người ta ăn bằng đũa, nơi người ta đánh răng và nơi người ta không gọi nhau bằng “ngươi”, xưng bằng “tao”; nhưng có lẽ phải một thời gian nữa, ông mới có thể tự ra đường một mình. Đối với ông Páo, Hà Nội với những ngõ nhỏ và xe cộ dập dìu như ma trận. Cách đây vài hôm, ông xin đi đổ rác “cho các ngươi” và lạc đến hơn 2 ngày liền.
Chỉ trừ A Lự nói được chút ít tiếng Kinh do xuống trị trấn đổi củi, ông A Páo và cậu bé A Đại chỉ biết dùng tiếng Mông và bập bõm vài ba từ tiếng Kinh đủ cho giao tiếp. Đã 2 tuần ở Hà Nội, mà ba cha con vẫn còn ngơ ngác đến sững sờ. Thấy ông A Páo nhìm chằm chằm vào cái TV, tròn mắt trước cái điện thoại và ôm mãi cây cột đèn giao thông, mới thấy như một người tiền sử lọt vào một thế giới khác.
Thậm chí, ông Páo cũng không thể đi đứng tự nhiên được vì theo ông, ở trên núi, “muốn đi đâu cũng phải bám vào cây rừng và đi rất khập khiểng; nhưng ở Hà Nội thì không biết bám vào đâu!?”.
...ôm mãi cây cột đèn giao thông, mới thấy như một người tiền sử lọt vào một thế giới khác. Thậm chí, ông Páo cũng không thể đi đứng tự nhiên được vì theo ông, ở trên núi, muốn đi đâu cũng phải bám vào cây rừng và đi rất khập khiểng; nhưng ở Hà Nội thì không biết bám vào đâu!?Đặc biệt, ông Páo cứ nhìn hết xe này đến xe khác chạy trên đường. Có lẽ vì ông còn lạ lẫm với đường phố Hà Nội, nhưng cũng có lẽ là ông đang tìm kiếm chiếc xe đã bắt mất vợ mình “vì xe máy mang vợ tao bán sang Trung Quốc mà”.
Dỗ dành thế nào, Sùng A Lự cũng nhất quyết không chịu nói chuyện với chúng tôi, bởi em chưa bao giờ biết đến cái điện thoại cả, khi nghe tiếng mà không thấy người, thì A Lự sợ đến phát khóc. Nói chuyện với chúng tôi qua điện thoại, Sùng A Páo cũng không biết làm gì với cái cục sắt nhỏ trong tay. Mãi khi có người dạy nói “alo”, ông vừa ngập ngừng vừa lập lại. Tiếng Kinh còn kém cõi, ông Páo chỉ dạ vâng và cho biết “Thích Hà Nội lắm”.
Ngày bỏ hang núi ra đi, trừ hai con gà vừa biết gáy, cha con ông Páo không có thứ gì để mang theo, mới thấy khốn khổ và xơ xác cho cái thân cha con ông Sùng A Páo. Câu chuyện về cha con ông Sùng A Páo là một sự thoát ly đầy ngoạn mục từ một nơi tận cùng của hoang sơ. Thoát khỏi hang núi Mông Ân, là thoát những buổi chiều sương bay rát mặt của miền đá tai mèo.
Thoát khỏi hang núi Mông Ân là thoát khỏi những sợi mì trắng nở lềnh bềnh trong chiếc nồi nhôm hoen rỉ. Thoát khỏi những cơn đói hoảnh mắt, thoát khỏi những bó củi khổng lồ, và thoát khỏi những bữa cơm ớt đốt dạ dày. Âu cũng là cái may mắn cho cha con ông Páo. Thế nhưng, những số phận giống như cha con ông Páo rồi sẽ ra sao khi nơi miền đá tai mèo kia, không hề thiếu những “cái ổ của người tiền sử” như thế?
Liên hệ với tác giả tại: QUYNHCHI@RFA.ORG
No comments:
Post a Comment