Translate

Sunday, August 28, 2011

Cân bằng Trung Quốc thông qua Việt Nam

Theo Dân Luận
Richard Weitz



Gepard-600.jpg

Nga giao hai tàu khu trục Gepard, mỗi chiếc vũ trang với tám tên lửa chống tàu KH-35U và trọng tải 1.500 tấn, cho Hải Quân Nhân Dân Việt Nam (VPN) trong năm 2009 và 2010. Đây là những tàu chiến trên mặt biển lớn nhất của Việt Nam. Nguồn hình ảnh: http://defense-studies.blogspot.com
2011/01/13 – Sự phô trương công khai hình ảnh máy bay chiến đấu tàng hình mới của Trung Quốc J-20, sự xuất hiện dự kiến sẽ sớm của tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc, và sự ghé thăm gặp khó khăn của Bộ trưởng Gates đến Trung Quốc tái khẳng định tầm quan trọng cho Hoa Kỳ có quan hệ an ninh tốt với các nước láng giềng của Trung Quốc. Quan hệ quốc phòng với Hàn Quốc vẫn mạnh mẽ, trong khi quan hệ với Nhật Bản đã hồi phục từ suy thoái năm ngoái, một phần nhờ chính sách đối đầu của Trung Quốc liên quan đến các vùng lãnh thổ tranh chấp giữa Bắc Kinh và Tokyo. Nhưng quan hệ an ninh Hoa Kỳ-Việt Nam tụt hậu phần nào do di sản của cuộc đối đầu trong quá khứ và các yếu tố khác. Mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đã trở nên mạnh mẽ hơn trong những năm gần đây bất chấp những bất đồng liên tục trong chính sách nhân quyền nội địa của Việt Nam và các vấn đề khác. Sự hợp tác bây giờ mở rộng vượt ra ngoài lĩnh vực như kinh tế và thu hồi xác lính Mỹ sang các sáng kiến ngoại giao chung để chống lại các đòi hỏi chủ quyền hàng hải rộng lớn của Bắc Kinh.

Trong năm 2009, Cơ quan Hợp tác An ninh Quốc phòng Mỹ tuyên bố sẵn sàng cho phép xuất khẩu thiết bị quân sự "không gây chết người" cho Việt Nam. Vào đầu Tháng Tám năm 2010, Bộ Ngoại giao của Việt Nam xác nhận bắt đầu đàm phán về một thỏa thuận hợp tác hạt nhân dân sự Mỹ-Việt. Cùng tháng đó, Hoa Kỳ và Việt Nam đã tổ chức các cuộc hội đàm quốc phòng chính thức đầu tiên và lực lượng hải quân của họ tiến hành cuộc tập trận chung đầu tiên của họ kể từ khi chiến tranh Việt Nam kết thúc. Tàu khu trục USS John McCain đã tiến hành các bài tập với các tàu của Hải Quân Nhân Dân Việt Nam (VPN)(2). Tàu sân bay chạy bằng năng lượng hạt nhân USS George Washington đồng thời tổ chức một phái đoàn thăm viếng gồm có dân sự-quân sự kết hợp từ Việt Nam trong khi tàu này di chuyển trong vùng biển tranh chấp ở Biển Đông.

Các mối đe dọa

Việt Nam đã bất hạnh chia sẻ một biên giới đất liền với Trung Quốc, điều này đã dẫn đến hàng thế kỷ của cuộc xâm lược và xung đột vũ trang giữa hai nước, gần đây nhất là vào cuối những năm 1970. Tuy nhiên, những căng thẳng Trung-Việt thời gian gần đây có liên quan chủ yếu là ở Biển Đông. Vùng biển có diện tích 3500000 ki-lô-mét vuông gồm có các hải đảo, khoáng sản (dầu mỏ và khí đốt tự nhiên nằm dưới biển), và những đường hàng hải mà các quốc gia duyên hải khác nhau đang tranh chấp. Việt Nam và Trung Quốc tuyên bố chủ quyền trên tất cả các đảo nhỏ trong vùng Biển Đông, trong khi Brunei, Malaysia, Philippines, và Đài Loan đòi chủ quyên một số đảo trong số các đảo này. Các chuỗi đảo Trường Sa và Hoàng Sa là nổi bật nhất, được cho là bao quanh bởi các mỏ dầu và khí đốt.
Hải quân Nhân Dân Việt Nam đã có những trận chiến với Trung Quốc trong thời gian giữa những năm 1970 và cuối những năm 1980 trên các quần đảo này. Trung Quốc đã chiếm giữ quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974, khi Việt Nam đã bận rộn trong cuộc nội chiến, và từ đó đã thành lập thêm các căn cứ quân sự trên đó. Chính quyền Trung Quốc cấm Việt Nam đánh bắt cá trong vùng Biển Đông và đã bắt giữ tàu đánh cá, chỉ thả ngư dân bị bắt và con tàu của họ sau khi nộp những khoản tiền phạt khổng lồ. Trung Quốc cũng đã cảnh báo các công ty năng lượng phương Tây không được đàm phán các hiệp định khoan dò ngoài khơi với chính phủ Việt Nam.
Hầu hết các trữ lượng dầu của Việt Nam nằm ở ngoài khơi của đồng bằng sông Cửu Long. Hơn nữa, Việt Nam đã quan tâm trong việc theo đuổi các tuyên bố chủ quyền quần đảo Trường Sa được cho là có khả năng giàu năng lượng bởi vì sự tụt giảm sản lượng dầu trong nước và sự tăng trưởng nhu cầu tiêu thụ năng lượng có thể làm cho Việt Nam trở thành một nước nhập khẩu dầu. Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng giao nhau với các tuyến đường thương mại hàng hải có nguồn gốc từ các hải cảng Việt Nam và bao gồm các khu vực đánh cá rộng lớn và nuôi trồng thủy sản của Việt Nam . Chủ nghĩa quốc gia dân tộc cũng đóng một vai trò quan trọng. Các cuộc biểu tình nổ ra trên khắp Việt Nam khi Trung Quốc tuyên bố quần đảo Hoàng Sa là một phần của thành phố tỉnh Hải Nam trong năm 2008. Một nguồn tiềm năng xung đột với Trung Quốc khác nữa là sông Cửu Long. Chỉ một phần nhỏ của nó chạy qua Việt Nam, nhưng vùng nước của nó tưới cho đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam Việt Nam. Đồng bằng sông Cửu Long sản xuất một nửa số lượng lúa gạo của Việt Nam, và làm cho Việt Nam có vị trí quốc gia xuất khẩu gạo thứ hai thế giới, đây là một nguồn ngoại hối quan trọng cho Hà Nội. Đồng bằng sông Cửu Long đang bị đe dọa bởi cả hai mực nước biển dâng cao và sự dẫn dòng, xây đập trên sông Mekong ở khu vực thượng nguồn của Trung Quốc, điều này làm các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long dễ bị tổn thương vì sự tăng độ mặn trong đất và xói mòn đất đai.



Spratly_Islands-400.gif

Nguồn hình ảnh: http://en.wikipedia.org

Đối Phó

Việt Nam tiếp tục nuôi dưỡng một quốc gia độc lập mạnh mẽ và kiên cường được thiết kế để làm cho Việt Nam như một con "tôm độc" mà Trung Quốc không thể tiêu hóa. Sau khi kết thúc Chiến tranh Lạnh và sự trợ cấp xa hoa cho quốc phòng và kinh tế bởi các thành viên khối Liên Xô khác, Việt Nam đã điều chỉnh tư thế quân sự của mình bằng cách rút khỏi Campuchia và giải quyết tranh chấp biên giới đất liền với Trung Quốc.
Tuy nhiên, với gần 500.000 binh sĩ chính quy, nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam sở hữu một quân đội lớn trong mười quân đội lớn nhất trên thế giới. Ngoài ra, chính quyền vẫn đeo đuổi trong việc mua hệ thống vũ khí nước ngoài để bổ sung cho một quân đội được đào tạo sâu rộng trong chiến tranh du kích và các kỹ thuật chiến đấu truyền thống hơn.
Trong năm 2009, tổng sản phẩm trong nước của Việt Nam (GDP) là $US92,4 tỷ USD và ngân sách quốc phòng 2009 của nó lên tới $US4 tỷ, chiếm khoảng 2% của tổng GDP. Theo dự báo lạc quan nhất cho ngân sách của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam (VPA)(1) vào năm 2018, giả định là 5% GDP cho quốc phòng, tức khoảng gần $US10 tỷ, giống như các chi tiêu quốc phòng năm 2009 của Đài Loan.
Tuy nhiên, chi tiêu 5% GDP là điển hình trong các quốc gia thịnh vượng và phát triển hơn. Hầu hết các nước thành viên ASEAN đã chi tiêu 3% GDP tương ứng của họ cho quốc phòng. Với chi tiêu quốc phòng 3% GDP, Việt Nam dự tính chi tiêu khoảng $US5,5 tỷ vào năm 2018. Mặc dù vậy, việc mua vũ khí nước ngoài có thể tăng nếu VPA giảm hơn nữa mức độ nhân sự.
Nga đã thay thế Liên Xô cũ để là nhà cung cấp vũ khí tinh vi chính yếu cho Việt Nam, mặc dù mối quan hệ giữa Moscow và Hà Nội được dựa trên sự kinh doanh và sự cân nhắc chiến lược chứ không phải là do có chung ý thức hệ. Công ty của Canada và châu Âu cũng đã bán một số vũ khí cho Trung Quốc.
Mặc dù Hoa Kỳ đã không cung cấp cho Việt Nam với các hệ thống vũ khí tầm cỡ, Hoa Kỳ đã nới lỏng những hạn chế chuyển giao có từ thời Chiến tranh Lạnh. Ngoài ra, các nhà ngoại giao Mỹ đã tỏ ra quan tâm để làm việc với các đối tác Việt Nam để chống lại các đòi hỏi chủ quyền hàng hải Trung Quốc ở Biển Đông.
Hiện nay, chính quyền Obama đã cho thấy một sự sẵn sàng bán hàng hoá quân sự không gây chết người cho Việt Nam. Tất nhiên, định nghĩa chính xác của "không gây chết người" được mở ra để mọi người suy diễn.

Hải quân

Hải Quân Nhân Dân Việt Nam (VPN) dành phần lớn nguồn lực của mình để giám sát các hoạt động của lực lượng hải quân nước ngoài và các đội tàu ngư nghiệp cũng như để chống buôn lậu và vi phạm chủ quyền hàng hải. Chiến lược hải quân của Việt Nam có thể được tóm tắt chủ yếu là để từ chối sử dụng vùng biển chủ quyền, ngăn chặn các lực lượng địch từ hoạt động trong vùng biển Việt Nam, thay vì để chủ động khoe trương sức mạnh hải quân. Nga là nhà cung cấp chính các tàu chiến cho Việt Nam.
Nga đã giao hai tàu khu trục Gepard, mỗi chiếc vũ trang với tám tên lửa chống tàu KH-35U và có trọng tải 1.500 tấn, cho VPN trong năm 2009 và 2010. Đây là những chiến thuyền trên mặt biển lớn nhất của Việt Nam.
Nga và Việt Nam hiện đang đàm phán việc cung cấp thêm hai tàu khu trục Gepard, có thể được xây dựng theo giấy phép trong các nhà máy đóng tàu của Việt Nam. Nhiệm vụ chính của tàu khu trục Gepard của VPN sẽ là ngăn chận thương mại hàng hải đối phương và đối phó những tàu chiến tấn công nhanh mà những quốc gia đối thủ đang tranh chấp của các đảo phía Nam Trung Quốc đang sở hữu. Trước đây, VPN nhận được tên lửa chống tàu siêu âm P-270 Moskit và P-800 Oniks của Nga.
Trong năm 2009, Việt Nam đã ký một hợp đồng trị giá $US1,8 tỷ để mua sáu tàu ngầm hạng Kilo với khả năng tấn công thông thường. Thỏa thuận này cũng bao gồm hỗ trợ kỹ thuật và xây dựng các căn cứ để chứa tàu ngầm. Tàu ngầm Kilo, tuy bị giới hạn về tốc độ và tầm hoạt động do dung lượng pin giới hạn của nó, là loại yên tĩnh và được vũ trang với ngư lôi và tên lửa chống tàu nổi.
Tàu ngầm Kilo có thể khai thác điểm yếu lâu dài của Quân đội Hải quân Trung Quốc trong lĩnh vực của chiến tranh chống tàu ngầm để theo dõi các cuộc diễn tập quân sự của Trung Quốc cũng như của các nước khác. Các tàu ngầm này cũng có thể giúp Việt Nam thoát ra khỏi bất kỳ cuộc phong tỏa nào của hải quân nước ngoài. Tàu ngầm đầu tiên của Việt Nam đến từ Bắc Triều Tiên, quốc gia này đã bán cho Hà Nội hai tàu ngầm loại Yugo trong năm 1997 cho mục đích gián điệp và xâm nhập.
Trong những năm tới, VPN có thể tập trung vào việc mua các tàu chiến nhỏ trong phạm vi kích thước tàu hộ tống hoặc tàu khu trục nhỏ (trọng tải từ 1.000 đến 4.000 tấn) để hỗ trợ cho các hoạt động ven biển và để thu thập kinh nghiệm trong việc điều khiển các tàu lớn. Việt Nam cũng có thể mua thêm các tàu vận chuyển để cung cấp nhu yếu phẩm cho các căn cứ hải đảo.

Không Quân

Canada đã nổi lên như là một nguồn chính cung cấp máy bay quân sự cho Việt Nam. Năm ngoái, Việt Nam đã mua được sáu máy bay thuỷ-bộ DHC-6 400 Twin Otter từ Canada trị giá $US500 triệu. DHC-6 400 chủ yếu là một máy bay không có khả năng chiến đấu được thiết kế cho việc tìm kiếm và cứu nạn, tuần tra trên biển, và các nhiệm vụ cung cấp nhu yếu phẩm hải quân. Cảnh sát Hàng hải Việt Nam (chức năng tương đương với US Coast Guard) đã mua ba máy bay giám sát C212 và radar MSS 6000 trong năm 2008 từ các nhà sản xuất châu Âu. Trong những năm 1990, Việt Nam đã mua khoảng 12 chiếc máy bay chiến đấu hạng nặng Su-27 Flankers. Việt Nam đã nhận được 8 máy bay chiến đấu tấn công Su-30MMK trong năm 2009, và đặt mua thêm 12 chiếc nữa trong năm sau với giá $US1 tỷ.
Chiếc máy bay mạnh nhất trong kho vũ khí của Không Quân Nhân Dân Việt Nam (VPAF) (3) là chiếc Sukhoi Flanker, máy bay thế hệ thứ tư duy nhất của Việt Nam. Chúng rất linh hoạt và có thể bay xa. Máy bay được trang bị tên lửa R-77 không-đối-không tầm xa và tên lửa R-27 ngắn tầm, và trên giấy tờ, tương ứng với bất cứ điều gì Trung Quốc có thể có. Năm 2005, Việt Nam cũng mua 40 máy bay chiến đấu Su-22M cũ có khả năng ném bom.



SU-22-400.jpg

Nguồn hình ảnh: http://www.flightglobal.com
Su-22 có thể được sử dụng để hỗ trợ Su-30MKK trong vai trò tấn công hàng hải và cũng như một nền tảng hỗ trợ bằng không quân cho bộ binh và hải quân. Cộng hòa Séc và Ukraine cũng đã thông báo với Cơ Quan Đăng ký Vũ Khí Thông Thường của Liên Hợp Quốc là họ lần lượt bán được năm và ba chiếc Su-22M3 cho Việt Nam.
Nhìn về tương lai, VPAF sẽ rất có thể cần máy bay chiến đấu một động cơ hiện đại để thay thế 200 chiếc MiG-21 đã lỗi thời. Máy bay thay thế cho MiG-21 cần có khả năng đa dụng như tên lửa không-đối-không tầm xa và vũ khí tấn công không-đối-địa có hướng dẫn chính xác. Những ứng cử viên có chi phí thấp có thể là chiếc LCA của Ấn Độ, MiG 29 của Nga, Saab Gripen của Thụy Điển, Mirage 2000 của Pháp và Mid-Life Upgrade (MLU) F-16 của Mỹ. Trớ trêu thay, Phó Bộ trưởng Quốc phòng Nguyễn Huy Hiếu vào Tháng Một 2008 có cuộc họp với Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Công nghiệp của Bộ Quốc phòng Trung Quốc đưa ra khả năng VPAF mua sắm chiến đấu cơ JF-17 của Trung Quốc, được sản xuất chung với Pakistan. VPAF cũng có thể xem xét việc mua máy bay tiếp liệu trên không cho máy bay Flanker của Việt Nam để gia tăng phạm vi và thời gian bay.

Bộ Binh

Nga đã thiết kế và xây dựng hệ thống phòng không hiện đại cho Việt Nam. Hai đội tổng cộng mười hai bệ phóng tên lửa tầm xa địa-đối-không S-300PMU1 được mua từ Nga trong năm 2003. Tên lửa có tầm hoạt động 125 km. Một đội gồm sáu bệ phóng được triển khai tại các thành phố thủ đô của Hà Nội và trung tâm kinh tế của thành phố Hồ Chí Minh. Việt Nam cũng có một số lượng lớn súng chống máy bay phân tán trong cả nước.
VPA không có pháo tự hành hiện đại hoặc các xe tăng chiến đấu chính yếu, đặt VPA nằm ở thế bất lợi trong một cuộc chiến mặt đất với Quân Đội Trung Quốc, PLA (4). Israel đang nâng cấp các chiếc xe tăng T-55 của Việt Nam với áo giáp thụ động và phản ứng (5) được cải thiện, một khẩu pháo 125mm và hệ thống kiểm soát nhắm bắn của Ba Lan, nhưng đây chỉ là một biện pháp tạm thời trong khi Việt Nam sẽ cần xe tăng mới sớm bởi vì những hạn chế trong việc bảo vệ, đạn dược và động cơ máy bởi kích thước nhỏ của T55.
Trong khi địa hình của hầu hết các biên giới của Việt Nam bao gồm của đầm lầy hoặc núi rừng, VPA có thể không có ý tìm kiếm để có được xe tăng chiến đấu chính, loại có 60 trọng lượng tấn trở lên, loại trừ xe tăng phương Tây như Leopard II và M1 Abrams. VPA có thể sẽ mua xe tăng như T-90, có trọng lượng 45-đến-50 tấn. T-90 cũng là loại có nhu cầu sử dụng ít đòi hỏi hơn so với hầu hết các xe tăng của NATO, nhưng vẫn mang hỏa lực đáng kể.
Việt Nam đã tự nâng cấp hàng chục xe bọc thép M113 thu được từ các lực lượng Mỹ và Nam Việt Nam, nhưng hiện đại hoá những chiếc này thực là một thách thức vì các biện pháp ngăn cấm vũ khí Mỹ vào Việt Nam. VPA muốn nâng cấp những xe bọc thép này và những xe quân sự có vũ trang khác với các khẩu pháo tốt hơn, các trạm vũ lực điều khiển từ xa, thiết bị hình ảnh trực quang, và động cơ tua-bin khí hoặc diesel. Súng phóng tên lửa BM-21 của VPA, lần đầu tiên triển khai vào năm 1963, có thể sẽ được thay thế bằng một vũ khí đàn áp khu vực mới (6).

Có thể Mỹ bán hàng

Trong quá khứ, mối quan tâm chính trị trong nước Mỹ đã cản trở việc bán vũ khí của Mỹ cho Việt Nam. Chúng bao gồm những ký ức đau thương của chiến tranh Việt Nam, sự ngược đãi của chính phủ Việt Nam với người Hmong và dân tộc thiểu số Degar, sự đàn áp đối với những bất đồng chính trị, và sự chống đối mạnh mẽ của cộng đồng người Mỹ gốc Việt đối với Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự cân nhắc chính sách đối ngoại đã có thêm những trở ngại mới. Chúng bao gồm mối quan tâm về việc làm tổn hại đến mối quan hệ của Mỹ với đồng minh truyền thống ở Đông Nam Á, đặc biệt là Singapore và Thái Lan. Cả hai nước là đồng minh quan trọng của Mỹ ở ngoài NATO và Thái Lan đã chiến đấu những cuộc đụng độ biên giới rộng lớn ở biên giới Campuchia với Việt Nam trong những năm 1980. Các quan chức Trung Quốc cũng sẽ phản đối sự chuyển giao hệ thống vũ khí gây chết người của Mỹ cho Việt Nam, và có thể trả đũa bằng cách gửi thêm vũ khí cho các chế độ thù nghịch với Hoa Kỳ.
Việt Nam có số lượng đáng kể các loại vũ khí của Mỹ thu được trong cuộc nội chiến. Chúng bao gồm máy bay chiến đấu F-5 Tiger, máy bay tấn công OV-10 Bronco, máy bay vận tải C-130 Hercules, máy bay trực thăng UH-1 Huey, xe tăng M113 APC và M-48. Hầu hết những nền tảng này đã không được sử dụng do quá cũ, thiếu bảo trì và phụ tùng thay thế, nhưng máy bay vận tải, máy bay trực thăng và xe bọc thép do Mỹ chế tạo vẫn phục vụ trong VPA và có thể được nâng cấp bởi người Mỹ để tăng cường sự an toàn, phạm vi hoạt động, tải trọng, hệ thống điện tử, và động cơ tiết kiệm nhiên liệu.
VPN đã đặt việc cung cấp nhu liệu và quân liệu cho các căn cứ quần đảo là một ưu tiên cao, điều này cho thấy rằng Việt Nam có thể chú ý đến các tàu chiến đổ bộ bị tước đi vũ khí tấn công và đã ngừng hoạt động của Mỹ. Hoa Kỳ đã bán tàu đổ bộ xe tăng loại Newport cho Úc, Chile, Mexico, Morocco, Tây Ban Nha và Đài Loan. Các tàu này có đường dốc để đổ bộ xe quân cụ trong các vùng nước nông, chẳng hạn như những bờ biển trong quần đảo Trường Sa. Các tàu đổ bộ cũ như USN Anchorage Landing Ship Dock và Austin Platform Docks đã được bán cho Đài Loan và Ấn Độ. So với các tàu tải xe tăng, những tàu này đã được tăng năng lực để hỗ trợ các hoạt động của máy bay trực thăng và sẽ tăng cường khả năng tìm kiếm và cấp cứu trên biển cho Việt Nam.
Việt Nam cũng có thể muốn có được trực thăng vận tải của Mỹ. Chiếc S-70 Seahawks và UH-60 Blackhawks là đối tượng hấp dẫn, ngoài việc mang tải vượt quá bốn tấn, nó có thể được tối ưu hóa cho môi trường biển, môi trường cao nguyên, và hoạt động ban đêm. Thêm vào đó là trực thăng CH-47 Chinook nặng, có thể được sử dụng cho các hoạt động di động không kỵ và để cung cấp cho các tiền đồn rừng núi xa xôi gần biên giới Trung Quốc. Chiếc C-130J Super Hercules và máy bay vận tải C-27A Spartan có lẽ lý tưởng cho nhu cầu không vận của Việt Nam. Hai máy bay này theo thứ tự có thể mang 20 và 11 tấn trọng tải, và đường cất cánh ngắn thích ứng với những vùng sâu vùng xa, do đó có ứng dụng nhân đạo hữu ích cho việc cung cấp cứu trợ trong những hậu quả của bão và các thảm họa thiên nhiên khác.
Những nỗ lực trước đây của Việt Nam để sản xuất trong nước các máy bay không người lái với sự giúp đỡ của Israel đã không thành công. Chiếc Predator MQ-1 và chiếc RQ-7 Shadow trong mức độ chiến thuật sẽ cung cấp độ bền lâu, quan sát ở tầm bay thấp, và với khả năng giám sát chi phí hữu hiệu trong những biên giới đất liền và biển rộng lớn của Việt Nam.
UAV(7) cũng sẽ giúp phối hợp diễn tập hải quân và bộ binh. Việt Nam cũng có thể có lợi nếu có được máy bay AEW&C(8) như chiếc E-2T Hawkeye, máy bay này sẽ cải thiện việc xử lý dữ liệu chiến trường, phủ sóng radar, và truyền thông. Một động thái để có được khả năng AEW & C sẽ giúp Việt Nam đối ứng được với các máy bay Trung Quốc KJ-2000 và KJ-200, máy bay Gulfstream Phalcon của Singapore, và Erieye Saab 340 của Thái Lan.
Hiện đại hóa của Quân Đôi Nhân Dân Việt Nam cũng đòi hỏi sự đổi mới hệ thống thông tin liên lạc và điều khiển của VPA. Nếu quan hệ Mỹ-Việt đã được cải thiện đáng kể, Việt Nam có thể có cơ hội để mua hệ thống điện đàm radio Links 11 và 16 và hệ thống thông tin dữ liệu như MIDS/LVT-1 để tăng lưu lượng thông tin và an ninh ở mức độ chiến lược và chiến thuật. Sự gia tăng nhận thức về tình huống và khả năng ra quyết định trong thời gian thực từ các hệ thống tư lệnh điện tử hóa sẽ cho phép Việt Nam phối hợp các hoạt động của không quân, bộ binh, và hải quân tốt hơn.
Cuối cùng, chiến tranh Việt Nam đã thải ra hàng chục ngàn tấn bom mìn chưa nổ, đạn pháo, bom, bẫy và nhiều vật liệu gây nổ khác trên khắp Việt Nam, bao gồm cả khu vực đô thị đông dân cư và đất nông nghiệp. Các phương tiện cơ động dò phá mìn của Mỹ chẳng hạn như xe Cougar Mine Resistant Ambust Protected (MRAP) và M60 Panther sẽ cải thiện rất nhiều hiệu quả, tốc độ, và an toàn nỗ lực dò phá mìn của Việt Nam, mà phần lớn hiện đang được thực hiện bằng tay người.

Chú thích:

1) VPA – Vietnamese People’s Army : Quân Đội Nhân Dân Việt Nam
2) VPN – Vietnamese People’s Navy : Hải quân Nhân Dân Việt Nam
3) VPAF – Vietnamese People’s Air Force : Không quân Nhân Dân Việt Nam
4) PLA – People’s Liberation Army : Giải phóng quân Nhân Dân Trung Quốc
5) Passive and reactive armour: áo giáp thụ động và phản ứng – đây là những kỹ thuật của vỏ xe tăng với những phản ứng đặc thù của vỏ xe khi bị trúng đạn pháo.
6) Area suppresion weapon: Vũ khí đàn áp khu vực, tức là vũ khí tên lửa được bắn ra hàng loạt liên tục để tiêu diệt và phong tỏa một vùng diện tích rộng lớn. Vũ khí này có thể trang bị cho các loại xe vận tải, xe tăng.
7) UAV - Unmanned Aerial Vehicles: máy bay không người lái, được điều khiển từ xa.
8) AEW & C - Airborne early warning and control: hệ thống báo động sớm và kiểm soát trên không.

No comments: